Ảnh hưởng của nhiệt độ đến FCR ở tôm thẻ

logo
EN

Ảnh hưởng của nhiệt độ đến FCR ở tôm thẻ
Ngày đăng: 14/10/2021 5483 Lượt xem

    tôm thẻ chân trắng

    Nghiên cứu đã cho thấy tiềm năng cải thiện FCR dựa trên nhiệt độ nước và tốc độ tăng trưởng hàng tuần.

    Một phương pháp mới có thể cải thiện FCR khi nuôi tôm trong hệ thống biofloc dựa trên nhiệt độ nước và tăng trưởng hàng tuần của tôm.

    Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) có tiềm năng tăng trưởng tốt nhất từ 28 - 30 độ C trong các hệ thống nuôi thông thường. Sự tăng trưởng này đạt được không chỉ bởi một phạm vi nhiệt độ thích hợp mà còn tổng của nhiều yếu tố bao gồm các thông số nước thích hợp và quản lý cho ăn hiệu quả. Quản lý cho ăn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu suất tốt nhất (hệ thống biofloc (BFT) là sự giảm hệ số chuyển đổi thức ăn). Thức ăn là nguyên liệu đầu vào đắt nhất trong sản xuất tôm, nên việc quản lý thức ăn và phương pháp cho ăn hiệu quả góp phần đem lại sản lượng và lợi nhuận cao nhất.

    Có nhiều quy trình cho ăn có thể được sử dụng làm cơ sở khi bắt đầu một vụ nuôi. Trong số các nghiên cứu liên đến thực hành nuôi tôm truyền thống, Jory và cộng sự 2001 và Tacon và cộng sự 2002 đã đề xuất chế độ cho ăn dựa trên nhiệt độ nước, trong khi Garza de Yta cùng cộng sự 2004 lại có quy trình cho ăn dựa trên sự tăng trưởng dự kiến hàng tuần của tôm. 

    Ảnh hưởng của nhiệt độ đến FCR ở tôm thẻ nuôi trong hệ thống biofloc 

    Đây là báo cáo về nghiên cứu của Geraldo Fóes và cộng sự 2021 về các điều chỉnh đối với quản lý cho ăn trong hệ thống BFT nhằm cải thiện FCR.

    Thử nghiệm bao gồm 5 nghiệm thức với 5 nhiệt độ nước nuôi tôm khác nhau (20, 23, 26, 29 và 32oC). Thí nghiệm được thực hiện trong những tháng mùa đông để đảm bảo duy trì nhiệt độ nước ở mức cần thiết. Mỗi nghiệm thức được thử nghiệm ba lần trong các bể 300 lít.

    Tôm có trọng lượng trung bình ban đầu là 1,2 gam được thả với mật độ 300 con/m3. Thí nghiệm kéo dài 10 tuần, và trong thời gian đó, nhiệt độ nước được duy trì bằng máy sưởi 300 watt và được theo dõi hàng ngày. Các thông số nước như: Oxy hòa tan, pH và độ mặn cũng được theo dõi hàng ngày, trong khi amoniac, nitrit, nitrat và kiềm được theo dõi 2 lần/tuần.

    Biofloc trưởng thành từ một bể khác được cấy vào các bể thí nghiệm khi bắt đầu với tỷ lệ 10% tổng thể tích bể. Tỷ lệ cacbon: nitơ (C: N) được sử dụng để duy trì biofloc là 15: 1, và khi cần, mật đường (36% C) và vôi ngậm nước được sử dụng để giữ độ kiềm ở mức thích hợp.


    Hệ thống thí nghiệm bao gồm 15 máy sục khí 300 lít sử dụng các ống có lỗ siêu nhỏ và máy sưởi 300 watt để duy trì nhiệt độ thí nghiệm.

    Tỷ lệ cho ăn ban đầu được tính toán theo khuyến nghị của Jory và cộng sự năm 2001 là cho ăn dựa trên nhiệt độ nước và được điều chỉnh hàng ngày thông qua việc sử dụng khay ăn. Thức ăn cho tôm thương mại được sử dụng có chứa 38% protein thô. Hàng ngày, thức ăn thừa được thu thập và sau đó sấy khô để tính toán chính xác FCR. Hàng tuần, 30 con tôm được lấy từ mỗi bể và cân để ước tính tốc độ tăng trưởng hàng tuần. Vào cuối giai đoạn thí nghiệm, tất cả các con tôm còn lại được cân để có trọng lượng cuối cùng, tỷ lệ sống và năng suất cho mỗi công thức thí nghiệm.

    Kết quả của Geraldo Fóes và cộng sự 2021 đã cho thấy các số thông số chất lượng nước - oxy hòa tan, độ kiềm, amoniac, nitrat và nitrit - có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức thí nghiệm, do nhiệt độ khác nhau. Mặc dù vậy, không có thông số chất lượng nước nào đạt đến giá trị có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của tôm con ngoại trừ nhiệt độ nước.

    biểu đồ tỷ lệ sống

    Hình 1: Tỷ lệ phần trăm tỷ lệ sống (trục Y, bên trái) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (trục Y, bên phải) của tôm được nuôi thử nghiệm ở các nhiệt độ nước khác nhau trong hệ thống BFT.

    Tỷ lệ sống sót đối với 5 nhóm nhiệt độ dao động từ khoảng 80 – 97%, và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) dao động trong khoảng 1,25 - 2. Tỉ lệ sống và FCR tốt nhất được quan sát thấy ở hai nhóm nhiệt độ thấp nhất, 20 và 23 độ C (Hình 1).

    biểu đồ nhiệt độ

    Hình 2: So sánh giữa tăng trưởng hàng tuần (gam) (trục Y, bên trái) và tăng trưởng cuối cùng (gam) (trục Y, bên phải) trong nhiệt độ thí nghiệm. Các chữ cái chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều trị.

    Tôm nuôi ở nhiệt độ 29 (tốt nhất) và 32 độ C cho thấy mức tăng trưởng cuối cùng đáng kể khi so sánh với các nghiệm thức ở 26, 23 và 20 độ C, như mong đợi (Hình 2). Điều thú vị trong những kết quả này là mức tăng trưởng trung bình hàng tuần tương ứng với cùng một mô hình trọng lượng cuối cùng trong điều kiện nhiệt độ không đổi.

    Ngoài ra, nhiệt độ hạn chế sự tăng trưởng tối đa mà tôm có thể đạt được ở mỗi nghiệm thức thử nghiệm. Vì vậy, điều quan trọng là phải tạo ra một quy trình cho ăn phù hợp với khả năng của tôm ở các nhiệt độ nuôi khác nhau. Ví dụ, khi nuôi tôm ở 26 độ C trong thí nghiệm, tôm đạt mức tăng trưởng trung bình hàng tuần là 0,7 gam và việc cung cấp cho vật nuôi thêm thức ăn vượt quá lượng đã sử dụng sẽ chỉ dẫn đến lãng phí thức ăn, giảm chất lượng nước và thiệt hại về kinh tế.

    Cải thiện FCR nuôi tôm thẻ trong hệ thống biofloc

    Dựa trên kết quả của nghiên cứu trên, các nhà khoa học đề xuất sửa đổi các tính toán cho ăn do Garza de Yta và cộng sự đề xuất năm 2004. Đó là cách tiếp cận sử dụng mức tăng trưởng dự kiến hàng tuần hiệu chỉnh dựa trên nhiệt độ nước nuôi tôm trong hệ thống biofloc.

    Nhiệt độ nước ( oC) Tăng trưởng hàng tuần thực tế (g) Tăng trưởng hàng tuần đề xuất (g) Công thức tính lượng thức ăn hằng ngày
    20 0,22 0,25 DFO = (N * (WGTB 0,25) * FCR) / 7
    23 0,56 0,50 DFO = (N * (WGTB 0,5) * FCR) / 7
    26 0,68 0,75 DFO = (N * (WGTB 0,75) * FCR) / 7
    29 1,00 1,00 DFO = (N * (WG) * FCR) / 7
    32 0,91 0,90 DFO = (N * (WGTB 0,9) * FCR) / 7

    Bảng 1. Công thức đề xuất, sửa đổi từ Garza de Yta et al. (2004), để cải thiện quy trình cho tôm ăn với các nhiệt độ nước khác nhau trong hệ thống biofloc. Cột 3 là các giá trị tăng trọng hằng tuần (WG) được đề xuất trong công thức tính để thuận lợi trong việc quản lý cho ăn.

    DFO = Nguồn cấp dữ liệu hàng ngày được cung cấp; 

    N = Số lượng sinh vật; 

    WGTB = Tăng trọng theo trên nhiệt độ; 

    WG = Tăng trưởng hàng tuần; 

    FCR: Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn; 7 = 7 ngày trong tuần. 

    công nghệ biofloc


    Hệ số hiệu chỉnh được đề xuất để cải thiện quy trình cho ăn của tôm xem xét nhiệt độ nước trong hệ thống sản xuất biofloc (BFT) sẽ tối đa hóa hiệu quả sản xuất tôm trong hệ thống BFT.

    Có rất nhiều cơ hội để cải thiện quy trình cho ăn của tôm nuôi trong hệ thống BFT, đặc biệt là ở những vùng có nhiệt độ nước dao động đáng kể. Nghiên cứu trên cho thấy tôm nuôi ở 32 độ C cho thấy hiệu quả tăng trưởng giảm và do đó các nhà khoa học khuyến nghị nhiệt độ nuôi thấp hơn trong phạm vi thí nghiệm đã đánh giá. 

    Công thức mới để tính lượng thức ăn hằng ngày này được điều chỉnh khi xem xét nhiệt độ nước nuôi trong hệ thống biofloc (BFT) và trọng lượng tăng trưởng hàng tuần sẽ góp phần tối đa hóa hiệu quả cho ăn đồng thời giảm thiểu thiệt hại kinh tế liên quan đến việc cho ăn.

    Nguồn: Geraldo Fóes, Ph.D. Dr. Wilson Wasielesky Junior Italo Marchetti Victor Rosas, Ph.D (2021), Assessing the effect of temperature on FCR in Pacific white shrimp cultured in biofloc systems, Global Seafood, Health & Welfare, 9/9/2021.

    Nguồn Tép Bạc

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Khan hiếm sản vật miền Tây ngay giữa mùa nước nổi

    Khan hiếm sản vật miền Tây ngay giữa mùa nước nổi

    Đồng bằng sông Cửu Long không còn lũ, những sản vật và đặc sản mùa nước nổi cũng trở nên khan hiếm, đến mức có tiền chưa chắc mua được.
    08/10/2020
    Nuôi tôm công nghệ cao: Hướng đi mới trước thách thức biến đổi khí hậu

    Nuôi tôm công nghệ cao: Hướng đi mới trước thách thức biến đổi khí hậu

    Tỉnh Kiên Giang đang triển khai thực hiện đề án ứng dụng công nghệ cao, tiết kiệm nước vào nuôi tôm công nghiệp theo hướng VietGAP.
    07/10/2020
    Quảng Ninh đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản công nghệ cao

    Quảng Ninh đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản công nghệ cao

    Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã dành nhiều nguồn lực phát triển ngành nuôi trồng thủy sản.
    07/10/2020
    Vĩnh Long: 9 tháng đầu năm, diện tích nuôi tăng nhưng sản lượng nuôi giảm

    Vĩnh Long: 9 tháng đầu năm, diện tích nuôi tăng nhưng sản lượng nuôi giảm

    Trong 9 tháng đầu năm, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm các loài thủy đặc sản gia tăng, giá thương phẩm các loại thủy đặc sản (lươn, baba, ếch, cá chạch lấu) tăng ổn định, người nuôi có lãi khá nên người nuôi tại Vĩnh Long đã mở rộng diện tích nuôi.
    05/10/2020
    Kích thích phản ứng miễn dịch của tôm thẻ bằng nấm men

    Kích thích phản ứng miễn dịch của tôm thẻ bằng nấm men

    Yarrowia lipolytica là một loại nấm men hiếu khí, lưỡng hình, không gây bệnh, nó có thể được phân lập từ sữa chua, môi trường biển và tôm.
    05/10/2020
    Vai trò của Enterococcus spp trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò của Enterococcus spp trong nuôi trồng thủy sản

    Bài viết tổng hợp những nghiên cứu về vai trò của Enterococcus spp trong nuôi trồng thủy sản hay cụ thể hơn là các nghiên cứu về công dụng của chủng Enterococcus spp trong nuôi cá.
    05/10/2020
    Hấp dẫn nơi thủ phủ tôm

    Hấp dẫn nơi thủ phủ tôm

    Về Bạc Liêu, nghĩ tới thủ phủ tôm. Vùng đất tuyệt vời như lời vọng cổ: “Bên nước mặn biển cho muối nhiều. Bên nước ngọt phù sa vun bồi". Những lĩnh vực trụ cột thu hút đầu tư
    01/10/2020
    Vaccine trên tôm: Từ vô lý đến hy vọng!

    Vaccine trên tôm: Từ vô lý đến hy vọng!

    Do không có trí nhớ miễn dịch nên ý tưởng Vaccine trên tôm vẫn được xem là không hiệu quả. Tuy nhiên, nếu làm được thì vaccine trên tôm sẽ từ ý nghĩ vô lý thành điều đáng hy vọng nhất với ngành tôm.
    28/09/2020
    Long An: Nuôi tôm công nghệ cao trong bể trên cạn, sau gần 3 tháng bắt được 4 tấn

    Long An: Nuôi tôm công nghệ cao trong bể trên cạn, sau gần 3 tháng bắt được 4 tấn

    Nông dân tham quan mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao của ông Vũ Hồng Hải, ấp 2, xã Phước Vĩnh Tây, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
    28/09/2020
    Cải thiện mô hình nuôi cá rô phi ao đất bằng zeolit

    Cải thiện mô hình nuôi cá rô phi ao đất bằng zeolit

    Sử dụng zeolit trong ao nuôi cá giúp cải thiện chất lượng nước, tăng trưởng và tình trạng sức khỏe của cá rô phi trong ao đất.
    28/09/2020
    Xử lý bọt trắng trong ao nuôi tôm

    Xử lý bọt trắng trong ao nuôi tôm

    Ao tôm xuất hiện nhiều bọt trắng lâu tan khi quạt là do nước ao có nhiều chất cặn lơ lửng như xác tảo tàn, chất hữu cơ từ thức ăn dư thừa, tảo, vi khuẩn dạng sợi, hạt đất và các hạt rắn lơ lửng khác.
    25/09/2020
    Acid hữu cơ trong nuôi trồng thủy sản

    Acid hữu cơ trong nuôi trồng thủy sản

    Acid hữu cơ và muối của chúng được sử dụng như là chất phụ gia trong thức ăn dùng cho động vật thủy sản
    24/09/2020
    Zalo
    Hotline