Ảnh hưởng của nhiệt độ đến FCR ở tôm thẻ

logo
EN

Ảnh hưởng của nhiệt độ đến FCR ở tôm thẻ
Ngày đăng: 14/10/2021 5455 Lượt xem

    tôm thẻ chân trắng

    Nghiên cứu đã cho thấy tiềm năng cải thiện FCR dựa trên nhiệt độ nước và tốc độ tăng trưởng hàng tuần.

    Một phương pháp mới có thể cải thiện FCR khi nuôi tôm trong hệ thống biofloc dựa trên nhiệt độ nước và tăng trưởng hàng tuần của tôm.

    Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) có tiềm năng tăng trưởng tốt nhất từ 28 - 30 độ C trong các hệ thống nuôi thông thường. Sự tăng trưởng này đạt được không chỉ bởi một phạm vi nhiệt độ thích hợp mà còn tổng của nhiều yếu tố bao gồm các thông số nước thích hợp và quản lý cho ăn hiệu quả. Quản lý cho ăn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu suất tốt nhất (hệ thống biofloc (BFT) là sự giảm hệ số chuyển đổi thức ăn). Thức ăn là nguyên liệu đầu vào đắt nhất trong sản xuất tôm, nên việc quản lý thức ăn và phương pháp cho ăn hiệu quả góp phần đem lại sản lượng và lợi nhuận cao nhất.

    Có nhiều quy trình cho ăn có thể được sử dụng làm cơ sở khi bắt đầu một vụ nuôi. Trong số các nghiên cứu liên đến thực hành nuôi tôm truyền thống, Jory và cộng sự 2001 và Tacon và cộng sự 2002 đã đề xuất chế độ cho ăn dựa trên nhiệt độ nước, trong khi Garza de Yta cùng cộng sự 2004 lại có quy trình cho ăn dựa trên sự tăng trưởng dự kiến hàng tuần của tôm. 

    Ảnh hưởng của nhiệt độ đến FCR ở tôm thẻ nuôi trong hệ thống biofloc 

    Đây là báo cáo về nghiên cứu của Geraldo Fóes và cộng sự 2021 về các điều chỉnh đối với quản lý cho ăn trong hệ thống BFT nhằm cải thiện FCR.

    Thử nghiệm bao gồm 5 nghiệm thức với 5 nhiệt độ nước nuôi tôm khác nhau (20, 23, 26, 29 và 32oC). Thí nghiệm được thực hiện trong những tháng mùa đông để đảm bảo duy trì nhiệt độ nước ở mức cần thiết. Mỗi nghiệm thức được thử nghiệm ba lần trong các bể 300 lít.

    Tôm có trọng lượng trung bình ban đầu là 1,2 gam được thả với mật độ 300 con/m3. Thí nghiệm kéo dài 10 tuần, và trong thời gian đó, nhiệt độ nước được duy trì bằng máy sưởi 300 watt và được theo dõi hàng ngày. Các thông số nước như: Oxy hòa tan, pH và độ mặn cũng được theo dõi hàng ngày, trong khi amoniac, nitrit, nitrat và kiềm được theo dõi 2 lần/tuần.

    Biofloc trưởng thành từ một bể khác được cấy vào các bể thí nghiệm khi bắt đầu với tỷ lệ 10% tổng thể tích bể. Tỷ lệ cacbon: nitơ (C: N) được sử dụng để duy trì biofloc là 15: 1, và khi cần, mật đường (36% C) và vôi ngậm nước được sử dụng để giữ độ kiềm ở mức thích hợp.


    Hệ thống thí nghiệm bao gồm 15 máy sục khí 300 lít sử dụng các ống có lỗ siêu nhỏ và máy sưởi 300 watt để duy trì nhiệt độ thí nghiệm.

    Tỷ lệ cho ăn ban đầu được tính toán theo khuyến nghị của Jory và cộng sự năm 2001 là cho ăn dựa trên nhiệt độ nước và được điều chỉnh hàng ngày thông qua việc sử dụng khay ăn. Thức ăn cho tôm thương mại được sử dụng có chứa 38% protein thô. Hàng ngày, thức ăn thừa được thu thập và sau đó sấy khô để tính toán chính xác FCR. Hàng tuần, 30 con tôm được lấy từ mỗi bể và cân để ước tính tốc độ tăng trưởng hàng tuần. Vào cuối giai đoạn thí nghiệm, tất cả các con tôm còn lại được cân để có trọng lượng cuối cùng, tỷ lệ sống và năng suất cho mỗi công thức thí nghiệm.

    Kết quả của Geraldo Fóes và cộng sự 2021 đã cho thấy các số thông số chất lượng nước - oxy hòa tan, độ kiềm, amoniac, nitrat và nitrit - có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức thí nghiệm, do nhiệt độ khác nhau. Mặc dù vậy, không có thông số chất lượng nước nào đạt đến giá trị có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của tôm con ngoại trừ nhiệt độ nước.

    biểu đồ tỷ lệ sống

    Hình 1: Tỷ lệ phần trăm tỷ lệ sống (trục Y, bên trái) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (trục Y, bên phải) của tôm được nuôi thử nghiệm ở các nhiệt độ nước khác nhau trong hệ thống BFT.

    Tỷ lệ sống sót đối với 5 nhóm nhiệt độ dao động từ khoảng 80 – 97%, và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) dao động trong khoảng 1,25 - 2. Tỉ lệ sống và FCR tốt nhất được quan sát thấy ở hai nhóm nhiệt độ thấp nhất, 20 và 23 độ C (Hình 1).

    biểu đồ nhiệt độ

    Hình 2: So sánh giữa tăng trưởng hàng tuần (gam) (trục Y, bên trái) và tăng trưởng cuối cùng (gam) (trục Y, bên phải) trong nhiệt độ thí nghiệm. Các chữ cái chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp điều trị.

    Tôm nuôi ở nhiệt độ 29 (tốt nhất) và 32 độ C cho thấy mức tăng trưởng cuối cùng đáng kể khi so sánh với các nghiệm thức ở 26, 23 và 20 độ C, như mong đợi (Hình 2). Điều thú vị trong những kết quả này là mức tăng trưởng trung bình hàng tuần tương ứng với cùng một mô hình trọng lượng cuối cùng trong điều kiện nhiệt độ không đổi.

    Ngoài ra, nhiệt độ hạn chế sự tăng trưởng tối đa mà tôm có thể đạt được ở mỗi nghiệm thức thử nghiệm. Vì vậy, điều quan trọng là phải tạo ra một quy trình cho ăn phù hợp với khả năng của tôm ở các nhiệt độ nuôi khác nhau. Ví dụ, khi nuôi tôm ở 26 độ C trong thí nghiệm, tôm đạt mức tăng trưởng trung bình hàng tuần là 0,7 gam và việc cung cấp cho vật nuôi thêm thức ăn vượt quá lượng đã sử dụng sẽ chỉ dẫn đến lãng phí thức ăn, giảm chất lượng nước và thiệt hại về kinh tế.

    Cải thiện FCR nuôi tôm thẻ trong hệ thống biofloc

    Dựa trên kết quả của nghiên cứu trên, các nhà khoa học đề xuất sửa đổi các tính toán cho ăn do Garza de Yta và cộng sự đề xuất năm 2004. Đó là cách tiếp cận sử dụng mức tăng trưởng dự kiến hàng tuần hiệu chỉnh dựa trên nhiệt độ nước nuôi tôm trong hệ thống biofloc.

    Nhiệt độ nước ( oC) Tăng trưởng hàng tuần thực tế (g) Tăng trưởng hàng tuần đề xuất (g) Công thức tính lượng thức ăn hằng ngày
    20 0,22 0,25 DFO = (N * (WGTB 0,25) * FCR) / 7
    23 0,56 0,50 DFO = (N * (WGTB 0,5) * FCR) / 7
    26 0,68 0,75 DFO = (N * (WGTB 0,75) * FCR) / 7
    29 1,00 1,00 DFO = (N * (WG) * FCR) / 7
    32 0,91 0,90 DFO = (N * (WGTB 0,9) * FCR) / 7

    Bảng 1. Công thức đề xuất, sửa đổi từ Garza de Yta et al. (2004), để cải thiện quy trình cho tôm ăn với các nhiệt độ nước khác nhau trong hệ thống biofloc. Cột 3 là các giá trị tăng trọng hằng tuần (WG) được đề xuất trong công thức tính để thuận lợi trong việc quản lý cho ăn.

    DFO = Nguồn cấp dữ liệu hàng ngày được cung cấp; 

    N = Số lượng sinh vật; 

    WGTB = Tăng trọng theo trên nhiệt độ; 

    WG = Tăng trưởng hàng tuần; 

    FCR: Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn; 7 = 7 ngày trong tuần. 

    công nghệ biofloc


    Hệ số hiệu chỉnh được đề xuất để cải thiện quy trình cho ăn của tôm xem xét nhiệt độ nước trong hệ thống sản xuất biofloc (BFT) sẽ tối đa hóa hiệu quả sản xuất tôm trong hệ thống BFT.

    Có rất nhiều cơ hội để cải thiện quy trình cho ăn của tôm nuôi trong hệ thống BFT, đặc biệt là ở những vùng có nhiệt độ nước dao động đáng kể. Nghiên cứu trên cho thấy tôm nuôi ở 32 độ C cho thấy hiệu quả tăng trưởng giảm và do đó các nhà khoa học khuyến nghị nhiệt độ nuôi thấp hơn trong phạm vi thí nghiệm đã đánh giá. 

    Công thức mới để tính lượng thức ăn hằng ngày này được điều chỉnh khi xem xét nhiệt độ nước nuôi trong hệ thống biofloc (BFT) và trọng lượng tăng trưởng hàng tuần sẽ góp phần tối đa hóa hiệu quả cho ăn đồng thời giảm thiểu thiệt hại kinh tế liên quan đến việc cho ăn.

    Nguồn: Geraldo Fóes, Ph.D. Dr. Wilson Wasielesky Junior Italo Marchetti Victor Rosas, Ph.D (2021), Assessing the effect of temperature on FCR in Pacific white shrimp cultured in biofloc systems, Global Seafood, Health & Welfare, 9/9/2021.

    Nguồn Tép Bạc

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Chiết xuất cam, quýt cải thiện sức khỏe đường ruột của heo con

    Chiết xuất cam, quýt cải thiện sức khỏe đường ruột của heo con

    Một nghiên cứu đã đánh giá hiệu quả của chiết xuất cam, quýt thay thế cho kháng sinh trong chế độ ăn của heo con. Kết quả chỉ ra rằng, chiết xuất cam, quýt làm tăng nồng độ axit amin thiết yếu trong huyết tương, cải thiện hình thái đường ruột và hoạt động của enzyme tiêu hóa.
    10/03/2021
    Cách nào giúp cá tra duy trì đà xuất khẩu tăng?

    Cách nào giúp cá tra duy trì đà xuất khẩu tăng?

    Sau chuỗi ngày sụt giảm liên tiếp vì dịch bệnh, gần đây xuất khẩu cá tra của Việt Nam đã tăng trưởng dương trở lại. Tuy vậy chặng đường phía trước của con cá tra vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết. Ông Trương Đình Hòe - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đã trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.
    09/03/2021
    Kì vọng nuôi tôm nước lợ năm 2021

    Kì vọng nuôi tôm nước lợ năm 2021

    Ngành nuôi trồng thủy sản nói chung cũng như những người nuôi tôm nói riêng đã và đang kì vọng vào vụ tôm năm 2021 đạt về năng suất lẫn chất lượng.
    09/03/2021
    Phương pháp ủ rơm khô bằng urê

    Phương pháp ủ rơm khô bằng urê

    Ủ rơm với urê (kiềm hóa rơm) là phương pháp rất đơn giản, dễ làm, phù hợp với trình độ của người dân; Giúp cải thiện chất lượng dinh dưỡng, khắc phục một phần tình trạng thiếu thức ăn cho trâu, bò trong vụ Đông - Xuân và những ngày giá rét kéo dài
    03/03/2021
    Ứng dụng công nghệ cấy truyền phôi bò sữa

    Ứng dụng công nghệ cấy truyền phôi bò sữa

    Công nghệ cấy truyền phôi đã được ứng dụng và phát triển ở nước ta giúp tạo nên những bước tiến lớn trong sản xuất giống bò sữa. Không những cải tạo đàn bò ở Việt Nam về số lượng mà còn cả năng suất và chất lượng
    02/03/2021
    Yêu cầu chuồng trại cho bò sữa

    Yêu cầu chuồng trại cho bò sữa

    Xây dựng chuồng trại đúng kỹ thuật không chỉ thuận tiện cho việc quản lý, chăm sóc mà còn giúp đảm bảo sức khỏe bò sữa, tăng chất lượng sữa.
    01/03/2021
    Nhu cầu tiêu thụ thủy sản được dự báo sẽ hồi phục mạnh mẽ

    Nhu cầu tiêu thụ thủy sản được dự báo sẽ hồi phục mạnh mẽ

    Với kỳ vọng mức độ ảnh hưởng của dịch COVID-19 sẽ giảm dần và sự hỗ trợ của các Hiệp định thương mại tự do, giới phân tích cho rằng, các kênh tiêu thụ chính của các sản phẩm thủy sản sẽ dần hoạt động trở lại, hỗ trợ đà tăng trưởng cho lĩnh vực này trong năm 2021.
    27/02/2021
    Công nghệ thụ tinh nhân tạo cho gà

    Công nghệ thụ tinh nhân tạo cho gà

    Thụ tinh nhân tạo đang là phương pháp được nhiều nông hộ chăn nuôi gà trên cả nước áp dụng. Công nghệ thụ tinh nhân tạo giúp giảm chi phí chăn nuôi tới 7%, giảm số trống sử dụng từ 8 - 10 lần. Không những thế còn tăng tỷ lệ phôi và tỷ lệ nở của trứng gà hơn 20%.
    26/02/2021
    Ra vườn hái 4 loại cây cỏ phòng trị bệnh cho cá nước ngọt

    Ra vườn hái 4 loại cây cỏ phòng trị bệnh cho cá nước ngọt

    Hiện nay tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh trong việc điều trị bệnh trên động vật thuỷ sản ngày càng trở nên phức tạp đã dẫn đến sự xuất hiện của xu hướng sử dụng thảo dược trong việc điều trị bệnh cho thuỷ sản ngày càng cao nhằm mục đích giải quyết tình trạng kháng thuốc, vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khoẻ cho con người mà các hệ thống nuôi trồng thuỷ sản đã và đang phải đối mặt.
    26/02/2021
    Bổ sung vitamin E và vitamin C trên tôm thẻ

    Bổ sung vitamin E và vitamin C trên tôm thẻ

    Một nghiên cứu mới đây của Hajar Ebadi và cộng sự 2020 đã cho thấy tác động tương tác của lipid trong khẩu phần ăn đến vitamin E và vitamin C khi bổ sung vào chế độ ăn để của tôm thẻ chân trắng.
    26/02/2021
    Triển vọng ngành chăn nuôi 2021

    Triển vọng ngành chăn nuôi 2021

    Trải qua một năm 2020 nhiều biến động, thị trường các sản phẩm protein toàn cầu năm 2021 có nguy cơ đối mặt nhiều rủi ro tiềm ẩn nhưng cũng sẵn sàng đón nhận cơ hội mới.
    22/02/2021
    Khô cải Carinata: Nguồn protein bền vững mới

    Khô cải Carinata: Nguồn protein bền vững mới

    Với nguồn cung bền vững, khô cải carinata được coi là một nguồn protein mới để sản xuất thức ăn chăn nuôi.
    17/02/2021
    Zalo
    Hotline