Bronopol - Hóa Chất Đặc Trị Vi Nấm Nhiễm Trên Động Vật Thủy Sản

logo
EN

Bronopol - Hóa Chất Đặc Trị Vi Nấm Nhiễm Trên Động Vật Thủy Sản
Ngày đăng: 30/03/2020 33400 Lượt xem

    PGS.TS. Phạm Minh Đức - Khoa Thủy Sản - Đại Học Cần Thơ

    GIỚI THIỆU

         Trong nuôi trồng thủy sản từ khâu sản xuất giống đến nuôi thương phẩm thì sự bị nhiễm vi nấm (Hình 1) thường xuyên xảy ra cho dù chúng ta đã áp dụng nhiều giải pháp phòng bệnh tổng hợp cũng như chăm sóc và quản lý đối tượng nuôi. Trong bản tin kỹ thuật này, xin được giới thiệu một hóa chất Bronopol có thể được cho là hóa chất sử dụng đặc trị vi nấm nhiễm trên động vật thủy sản đã và đang được sử dụng tốt trên thế giới như Nhật Bản, Anh, Mỹ, Hàn Quốc và Việt Nam.

     

    Hình 1: Động vật thủy sản bị nhiễm vi nấm và nấm thủy mi (Achlya sp.)

          Nhiều loại hóa chất thường được sử dụng để diệt vi nấm nhiễm trên cá đã được nghiên cứu nhiều bởi nhóm các nhà nghiên cứu (Willoughby and Roberts 1992; Kitancharoen et al., 1997; Duc, 2009; Oono and Hatai, 2007). Bên cạnh, oxy già (H2O2) là hóa chất thường được sử dụng trong phòng và trị vi nấm nhiễm ở trứng cá và cá nuôi thương phẩm (Dawson et al., 1994; Kitancharoen et al., 1997). Dung dịch natri hypoclorit (NaClO) ở nồng độ 200 ppm có khả năng ức chế vi nấm Fusarium (Khoa, 2005) và formol (HCHO) được sử dụng để phòng và trị sự nhiễm vi nấm ở cá hồi (Thorburn and Moccia, 1993). Thời gian gần đây, Bronopol (C3H6BrNO4) được dùng phổ biến trong phòng và trị vi nấm nhiễm trên trứng cá hồi (Pottinger and Day, 1999; Branson, 2002; Oono et al., 2007; Oono et al., 2008).

    BRONOPOL LÀ GÌ?

         Chất Bronopol có công thức hóa học (C3H6BrNO4). Tên hóa học của chất này là 2-Bromo-2Nitropropane-1,3-Diol. Trên thế giới bronopol cung ứng ra thị trường với tên thương mại như Pyceze, Onyxide 500. Trên thế giới đã cho phép sử dụng sản phẩm Pyceze có hoạt chất chính là Bronopol do công ty Novartis Animal Vaccines Limited sản xuất để thay thế malachite green trong điều trị bệnh nấm ngoại ký sinh.

    MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ BRONOPOL TRỊ VI NẤM

         Branson (2002) đã nghiên cứu ứng dụng bronopol vào trị nấm thủy mi (Saprolegnia spp.) dùng 20 mg/L bronopol tắm trong 30 phút trong 15 ngày đã diệt được nấm thủy mi nhiễm trên cá hồi. Một nghiên cứu khác ở Nhật Bản, Bronopol (50% hoạt chất) được sử dụng để diệt vi nấm thay thế cho hóa chất malachite green (đã cấm sử dụng) trong trại sản xuất giống cá hồi bằng cách tắm trứng cá hồi 30 phút mỗi ngày ở nồng độ từ 50-100 mg/L từ giai đoạn trứng thụ tinh đến giai đoạn có điểm mắt, kết quả cho thấy Bronopol có tác dụng rất tốt trong việc hạn chế sự nhiễm vi nấm và tăng tỉ lệ nở của cá (Oono et al., 2007). Tương tự, nhóm nghiên cứu của Oono et al. (2008) sử dụng Bronopol để kiểm soát sự nhiễm vi nấm trên trứng cá Ayu Nhật Bản (Plecoglossus altivelis) khi sử dụng 50-100 mg/L Bronopol tắm trứng cá trong 30 phút mỗi ngày từ giai đoạn trứng thụ tinh đến khi điểm mắt xuất hiện. Kết quả đã kiểm soát rất tốt vi nấm, tỉ lệ nở của trứng cá cao hơn so với không xử lý Bronopol.

         Kết quả nghiên cứu của Duc (2009) cho thấy Bronopol có thể diệt rất nhiều loài vi nấm gây bệnh ở động vật thủy sản. Sử dụng với liều lượng 50 mg/L Bronopol (50% hoạt chất) ngâm trong 24 giờ sẽ diệt được dòng vi nấm Plectosporium oratosquillae NJM 0662 và Acremonium sp. NJM 0672 gây bệnh nâu mang trên tôm tít Nhật Bản (Oratosquillae oratoria). Một nghiên cứu gần đây của Phạm Minh Đức và Trần Ngọc Tuấn (2011) trong điều kiện phòng thí nghiệm cũng cho thấy khi dùng Bronopol (50% hoạt chất) với liều lượng hơn 30 mg/L, tắm trong thời gian 60 phút có thể diệt nấm thủy mi (Achlya bisexualis) nhiễm trên cá lóc (Channa striata) giai đoạn cá giống.           

    TÁC DỤNG CỦA BRONOPOL

         Bronopol là một chất đặc trị vi nấm nhiễm trên động vật thủy sản được dùng phổ biến trong trại sản xuất cá giống, ương cũng như nuôi thương phẩm. Liều lượng sử dụng đối với bronopol (50%) từ 30 đến 100 mg/L tùy vào giai đoạn, tùy vào sự nhiễm vi nấm và tùy vào đối tượng nuôi. Chú ý nên sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

    THUẬN LỢI KHI DÙNG BRONOPOL

         Bronopol là hóa chất đặc trị vi nấm nhiễm trên động vật thủy sản, được sử dụng phổ biến trên thế giới. Ở Nhật Bản, bronopol là hóa chất kháng nấm dùng phổ biến trong các trại sản xuất giống cá và được xem là chất thay thế cho malachite green (đã cấm sữ dụng). Ở Việt Nam, hiện nay có một vài sản phẩm trên thị trường có thành phần chính là Bronopol tác dụng tốt trong việc phòng và trị vi nấm nhiễm trên động vật thủy sản. Sử dụng Bronopol thì rất an toàn.

    MỘT SỐ LƯU Ý KHI SỬ DỤNG BRONOPOL

         Chất bronopol dễ sử dụng, giá thành tương đối cao, tuy vậy hiệu quả diệt vi nấm rất mạnh nên trước khi sử dụng cần áp dụng theo khuyến cáo của nhà sản xuất hoặc cần có những nghiên cứu hỗ trợ trước khi sử dụng cho đối tượng thủy sản cụ thể nhằm tiết kiệm và hiệu quả hơn. Lưu ý không trộn thuốc với chế phẩm khác trong một khu ngâm tắm trị bệnh và không để thuốc dính vào cơ thể.

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline