Sán lá đơn chủ dactylogyrus & gyrodactylus gây bệnh trên cá nước ngọt

logo
EN

Sán lá đơn chủ dactylogyrus & gyrodactylus gây bệnh trên cá nước ngọt
Ngày đăng: 03/05/2019 17942 Lượt xem

    TS. Nguyễn Thị Thu Hằng, Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ

           Ký sinh trùng là một trong những tác nhân gây bệnh truyền nhiễm ở động vật thủy sản, đặc biệt là gây bệnh trên cá. Trong số đó, giống sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus và sán lá 18 móc Gyrodactylus thường ký sinh phổ biến trên cá ương nuôi và cá sống trong môi trường tự nhiên ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Khi sán ký sinh với mức độ nhiễm cao sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cá, thậm chí có thể gây chết cá. Vì vậy, muốn xác định tác nhân sán lá gây bệnh cá thì người nuôi cá cần phải biết hình thái, dấu hiệu bệnh lý, vòng đời, tác hại, mùa vụ xuất hiện bệnh cũng như biện pháp phòng bệnh thích hợp để hạn chế dịch bệnh xảy ra. 

    HÌNH THÁI

           Sán có dạng dẹp, màu trắng nhạt, chiều dài cơ thể dao động từ 0,4-1,0 mm tùy theo giống loài.Cơ thể gồm có phần đầu chia làm 4 thùy và có 4 tuyến đầu, riêng sán lá 16 móc Dactylogyruscó 4 điểm đen ở phần đầu gọi là 4 điểm mắt. Cơ thể của sán Gyrodactylus nhỏ và linh hoạt hơn sán Dactylogyrus. Phần sau cơ thể là đĩa bám gồm 2 móc lớn ở giữa, 14 hoặc 16 móc nhỏ xung quanh. Dựa vào số lượng móc mà sán có tên gọi là sán 16 móc hoặc sán 18 móc.   

    Hình 1: Sán lá 16 móc Dactylogyrus intermedius (Dactylogyridae)

    Hình 2: Sán lá 18 móc Gyrodactylus spp.

    DẤU HIỆU BỆNH LÝ

           Sán ký sinh chủ yếu trên da, vây và mang của cá. Chúng dùng các móc ở đĩa bám để bám vào ký chủ và tổ chức tuyến đầu của sán tiết ra men hialuronidaza phá hoại tế bào da, mang cá làm tiết nhiều dịch nhờn màu trắng đục cản trở hoạt động hô hấp của cá. Theo Bayer (1977) cá khỏe có khối lượng 1,2g bị nhiễm Gyrodactylus có thể bị giảm khối lượng xuống 0,5g, đồng thời lượng bạch cầu tăng và lượng hồng cầu giảm. Vùng da, mang bị sán ký sinh có hiện tượng viêm loét dễ dàng cho vi khuẩn, nấm và một số sinh vật khác xâm nhập và gây bệnh. Trường hợp nhiễm nặng các tổ chức tế bào sưng to, xương nấp mang cũng phồng lên, cơ thể thiếu máu dẫn đến gầy yếu, bơi lội chậm chạp. Cá ít hoạt động, nằm ở đáy ao hoặc nổi lên mặt nước đớp không khí, thậm chí mất dần khả năng vận động và bơi ngửa bụng.

    CHU KỲ PHÁT TRIỂN CỦA SÁN

           Sán lá đơn chủ có chu kỳ phát triển trực tiếp trên cơ thể cá. Sán Dactylogyrus đẻ trứng, trứng có thể chìm xuống đáy ao hay bám vào cây cỏ thủy sinh trong nước, đến ngày thứ 4 trứng nở cho ấu trùng sống tự do và nhanh chóng tìm kiếm ký chủ tiếp tục đời sống ký sinh, đến ngày thứ 10 phát triển thành sán trưởng thành và tham gia sinh sản. Thời tiết ấm tốc độ đẻ trứng càng nhanh. Sán Gyrodactylus đẻ con, trong cơ thể sán có thể chứa 2-3 bào thai, mỗi bào thai chứa 1 sán có hình dạng giống sán trưởng thành còn gọi là “thai trong thai” hay “tam đại trùng”, khi sán con chui ra khỏi cơ thể sán mẹ thì sán tiếp tục ký sinh trên cá và gây hại tương tự như sán trưởng thành. Vòng đời của sán Dactylogyruslà 19 ngày và sánGyrodactyluslà 13 ngày.   

    TÁC HẠI

           Sán Dactylogyrusvà Gyrodactyluscó tính đặc hữu rất cao, thường mỗi loài sán chỉ ký sinh trên một loài cá (mỗi giống sán có nhiều loài và mỗi loài chỉ ký sinh trên một loài cá nào đó). Một số nghiên cứu gần đây cho thấy cả hai giống sán lá này (có rất nhiều loài) ký sinh trên nhiều loài cá nuôi và cá ngoài tự nhiên trong môi trường nước ngọt như cá tra, ba sa, chép, he, mè vinh, rô phi... ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Đặc biệt trong ương nuôi cá tra, sán gây bệnh nghiêm trọng cho cá hương và cá giống 3-5cm với tỉ lệ nhiễm 100% và cường độ nhiễm là >70 sán/cá (Bùi Quang Tề, 2001). Theo Nguyễn Thị Thu Hằng và ctv (2007, 2009, 2010) thì kết quả phân tích cho biết cá giống ương nuôi ở ao/bè tỉ lệ nhiễm sánDactylogyrus, Gyrodactyluscũng rất cao từ 50-80%. Không có sự khác biệt lớn về cường độ nhiễm trung bình của nhóm cá ≥200g (36,8 sán/cung mang) và nhóm cá <200g (22,24 sán/cung mang), điều này cho thấy sán lá ngoại ký sinh không chỉ phụ thuộc vào kích cỡ cá mà còn phụ thuộc và mật độ ương nuôi và điều kiện môi trường nước.Kết quả điều tra (2009) cho biết vào những tháng mưa nhiều tỉ lệ nhiễm sán lá 93,8%, sán sinh sản và lây nhiễm rất nhanh làm cá thịt gầy yếu, giảm trọng lượng và gây cá chết hàng loạt cá giống. Nhìn chung sán 16 móc và sán 18 móc gây tác hại lớn trên cá nuôi đặc biệt là trong sản xuất và ương nuôi cá giống. 

    MÙA VỤ XUẤT HIỆN BỆNH

    Bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa và lây nhiễm nhanh trong các ao nuôi mật độ dày, điều kiện môi trường dơ bẩn. Nhiệt độ nước thích hợp cho sán phát triển và gây bệnh từ 22-28oC. 

    Hình A&B: Sán 16 móc Dactylogyrus ký sinh trên mang; C&D: Sán 18 móc Gyrodactyluský sinh trên da

    PHƯƠNG PHÁP PHÒNG BỆNH DO SÁN LÁ ĐƠN CHỦ 

    Để tránh lây nhiễm sán lá DactylogyrusGyrodactylus trong ao ương nuôi cá, chúng ta cần phải áp dụng theo một số biện pháp sau:

     - Khử trùng bể ương hoặc ao nuôi trước khi thả cá, phơi nền đáy ao 2-3 ngày thì bón vôi với liều lượng 3-4kg/100m3(tùy theo vùng nuôi). Có thể dùng những chất khử trùng khác để xử lý mà không cần phơi nền đáy.

    - Khử trùng nước ao nuôi bằng một số loại hóa chất như BKC (1L/1500m3); KMnO4 (Loại 1: 1L/2000-2500m3; Loại 2: 1L/1500-2000m3); Iodine (dạng thành phẩm sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

     - Không thả nuôi cá với mật độ quá dầy nhằm tránh sán lây nhiễm và gây bệnh. Nên luân phiên nuôi các loài cá khác nhau. Định kỳ thay nước và bón vôi CaCOvới liều lượng 1-2 kg/100mnước.

    - Kiểm tra ký sinh trùng trên da, vây, mang cá giống (30 con) trước khi thả nuôi.Có thể dùng KMnO4 10-20 mg/L tắm cá giống trong 15-30 phút, NaCl 2-3% tắm trong 5 phút hoặc formol 100-150 mg/L tắm trong 30-60 phút trước khi thả.

    - Khi cá bị nhiễm bệnh có thể dùng một số loại hóa chất để trị cho cá như formol với liều lượng 40-50 mg/L, KMnO4với liều lượng 0,5-1 mg/L hoặc H2O2 100-150mg/L. Thay nước cho cá và xử lý hóa chất một lần nữa nếu cá chưa hết bệnh hẳn.

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV.

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline