Sử Dụng Tỏi Trong Trị Bệnh Nhiễm Khuẩn Cho Động Vật Thủy Sản

logo
EN

Sử Dụng Tỏi Trong Trị Bệnh Nhiễm Khuẩn Cho Động Vật Thủy Sản
Ngày đăng: 05/06/2019 10672 Lượt xem

    PGS.TS. Kim Văn Vạn, Trưởng Bộ môn NTTS, ĐH Nông nghiệp Hà Nội

    Tỏi (Allium sativum) không chỉ làm gia vị cho các món ăn, còn có tác dụng rất lớn cho sức khỏe của người và còn được sử dụng nhiều trong điều trị bệnh nhiễm khuẩn của động vật thủy sản (ĐVTS). Tỏi có vị cay, tính ôn có tác dụng giải độc, sát trùng, chữa các bệnh do nhiễm khuẩn, chữa chứng chướng bụng do ăn thức ăn khó tiêu.

    Ứng dụng của tỏi trong y học

         Tỏi đã được các vị thầy thuốc xưa kia ca ngợi như một vị thuốc có giá trị. Hippocrates đã xem tỏi là môn thuốc tốt để trị các bệnh nhiễm độc, bệnh viêm, bệnh dạ dày và tích nước trong cơ thể. Galen đã khen ngợi tỏi như môn thuốc trị được nhiều bệnh. Pedanius Dioscorides (một danh y Hy Lạp) thì cho thấy tỏi giúp giọng nói trong trẻo, làm bớt ho và thông tắc nghẽn ở mạch máu. Tỏi còn làm lợi tiểu, bớt đau răng, chữa bệnh ngoài da và chữa cả bệnh hói tóc. Trong chiến tranh thế giới thứ I, người Nga đã dùng tỏi để trị các bệnh nhiễm trùng. Họ gọi tỏi là thuốc kháng sinh. Các bác sĩ Anh cũng biết dùng tỏi để trị vết thương nhiễm độc trên chiến trường. Khi có dịch cúm vào đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia trên thế giới đã dùng tỏi như một phương tiện để chống lại sự hoành hành của bệnh do vi rút cúm gây ra. Dân Nga xưa kia có tập quán ngâm tỏi với rượu vodka, để lâu hai tuần rồi uống và tin là sẽ được trường thọ. Dân Ukraina uống nước chanh ngâm tỏi để làm tăng sức lực, giữ cho người trẻ lâu. Trẻ con Ý được cha mẹ cho mang một túi tỏi nhỏ trên cổ để ngừa các bệnh truyền nhiễm. Dân da đỏ bắt chước đoàn thám hiểm Tây Ban Nha dùng tỏi để trị các bệnh khó tiêu, đau bụng, đau tai. Đặc biệt họ rất ít bị bệnh yết hầu vì dùng nhiều tỏi, mùi tỏi làm cuống phổi mở rộng, hô hấp dễ dàng. Người Mỹ xưa kia chữa bệnh tim phổi bằng cách đắp tỏi giã nhỏ lên chân để tỏi hút hết chất độc, đưa ra ngoài. Các bác sĩ đã chữa bằng tỏi và thấy có tác dụng trong việc diệt trực khuẩn lao. Tỏi có tác dụng chống lại tiến trình phát triển khối u và ung thư. Ăn càng nhiều tỏi càng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Tỏi còn giúp làm giảm LDL (cholesterol xấu) tăng HDL (cholesterol tốt), do đó làm giảm các rối loạn chuyển hóa mỡ trong máu, chống xơ cứng động mạch vành, động mạch não, động mạch ngoại vi. Mỗi ngày dùng tỏi tươi hoặc chế phẩm từ tỏi sẽ có tác dụng điều hòa huyết áp, chống bệnh tăng huyết áp, chống nhồi máu cơ tim và chống tai biến mạch máu não.

         Tỏi có tác dụng gia tăng sự phóng thích insulin tự do trong máu, tăng cường chuyển hóa glucose trong gan, giảm lượng đường trong máu và trong nước tiểu. Dùng tỏi thường xuyên có thể chữa bệnh tiểu đường type II. Tỏi có tác dụng ngăn sự đóng máu cục - một nguy cơ của chứng đột quỵ và tai biến mạch máu não. Các thầy thuốc xưa kia đều biết rằng tỏi làm máu loãng hơn. Tác dụng này diễn ra rất mau, chỉ vài giờ sau khi dùng tỏi. Chưa có trường hợp nào do ăn nhiều tỏi mà làm cho máu loãng rồi dễ xuất huyết, vì tỏi chỉ làm máu loãng tới mức bình thường. Tinh dầu tỏi có khả năng tiêu diệt một số vi sinh có hại mà không làm mất đi những vi sinh vật có lợi trong cơ thể. Tỏi làm tăng tính miễn dịch của cơ thể đối với vi khuẩn. Ngoài ra, tỏi cũng được dùng để trị bệnh hen suyễn và viêm phổi ở trẻ em.

    Thành phần hóa học của tỏi

         Tỏi có chứa chất alliin, một axit amin hữu cơ khi bị đập dập chất này kết hợp với men Allicinase có trong tỏi để biến thành Allicin. Allicin là một sulfua hữu cơ có mùi đặc trưng, không có màu, có khả năng kháng khuẩn và kháng nấm. Chất allicin có có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn mạnh bằng 1/5 thuốc penicillin và 1/10 thuốc tetracycline. Tỏi cũng có công hiệu để trị bệnh sán, giun kim, các bệnh nấm… Cơ chế tác động của allicin là gây ức chế quá trình tổng hợp protein, DNA và RNA làm chậm quá trình sinh trưởng của vi sinh vật.

    Hình 1. Công thức hóa học của hợp chất Allicin

    Ứng dụng của Tỏi trong điều trị bệnh ĐVTS

         Nuôi trồng thủy sản nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong vài năm gần đây, nhưng dịch bệnh do vi sinh vật gây ra là một trong những khó khăn chính ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả kinh tế cũng như sự phát triển bền vững của nghề. Để phòng trị dịch bệnh trên động vật thủy sản thì việc sử dụng rộng rãi nhiều loại kháng sinh và hóa chất là không thể tránh khỏi. Trong thời gian gần đây, các nước nhập khẩu sản phẩm thủy sản của việt Nam như Mỹ, Châu Âu, và Nhật đưa ra nhiều tiêu chuẩn khắt khe về tồn dư của các loại kháng sinh cũng như hóa chất trong các sản phẩm thủy sản gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Việc phát triển và ứng dụng các biện pháp thay thế sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản là hết sức cần thiết. Hiện nay có nhiều biện pháp thay thế sử dụng kháng sinh và hóa chất trong nuôi trồng thủy sản đã được đưa ra như quản lý sức khoẻ động vật thủy sản bằng biện pháp tổng hợp, sử dụng các chế phẩm sinh học và sử dụng cây thuốc nam. Việc sử dụng cây thuốc nam trong điều trị bệnh một số bệnh do tác nhân vi khuẩn và ký sinh trùng gây ra có lịch sử lâu đời. Theo kinh nghiệm dân gian, có khá nhiều loại cây thuốc nam, thảo mộc đã và đang được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản như sài đất, tỏi, cây chó đẻ răng cưa, nhọ nồi... Đề tài KN-04-12 năm 1990-1995 đã thành công trong việc tạo ra hỗn hợp của nhiều loại thảo dược trong việc hạn chế tác nhân gây bệnh trên cá nước ngọt. Các hợp chất có trong thảo dược rất phong phú, chúng được chia thành các nhóm bao gồm kháng sinh thực vật (phytocide) có tác dụng diệt khuẩn cũng như hạn chế sự sinh trưởng của các loại vi khuẩn như allicin có trong tỏi có tác dụng diệt khuẩn rất tốt.

         Sử dụng tỏi trong điều trị bệnh không những hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh, nó còn hạn chế hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn. Một lợi thế lớn nhất của việc sử dụng thảo mộc đó là chi phí thấp, tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Ưu điểm nữa của việc sử dụng tỏi đó là dễ tìm kiếm ngoài tự nhiên hoặc nông dân có thể tự trồng được. Tỏi là một loại thuốc nam được nông dân dùng nhiều nhất trong điều trị bệnh thủy sản. Tỏi có tác dụng trong việc phòng trị bệnh đường ruột cho tôm cá. Tỏi có tính kháng khuẩn khá cao với hầu hết các chủng vi khuẩn phân lập được trên cá bị bệnh trong nước ngọt cũng như nước lợ và nước mặn. Chất chiết của tỏi tách cho kết quả kháng khuẩn cao. Khi dùng tỏi để phòng và trị bệnh nhiễm khuẩn ở động vật thủy sản có thể dùng dạng bột tỏi, hoặc đập dập tỏi tươi  ngâm với thức ăn hoặc chiết suất dịch chiết trong tỏi. Liều dùng 1-2g bột tỏi/kg cá/ngày liệu trình 5-7 ngày.

                               

                                Hình 2: Tỏi củ dùng để chữa bệnh ĐVTS                          Hình 3: Vòng kháng khuẩn từ chất chiết của Tỏi

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline