Sự Lột Xác Trên Tôm Thẻ Chân Trắng (Litopenaeus vannamei)

logo
EN

Sự Lột Xác Trên Tôm Thẻ Chân Trắng (Litopenaeus vannamei)
Ngày đăng: 22/04/2020 12024 Lượt xem

    TS. Huỳnh Trường Giang, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ

    1. Các giai đoạn trong quá trình lột xác?

    - Tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei được khai thác và bắt đầu xuất hiện trên thị trường tiêu thụ của Mỹ vào năm 1709. Hiện nay, chúng là loài được nuôi rộng rãi ở các nước Châu Á - Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, tôm thẻ chân trắng đang trở thành đối tượng nuôi, hiện nay do tôm có chu kỳ lột xác ngắn, lớn nhanh, thời gian nuôi ngắn. Để giúp người nuôi nắm được sinh lý quá trình lột xác của tôm cũng như là sự thay đổi về hình thái, sinh hóa và miễn dịch của tôm, bài viết sẽ góp phần làm phong phú thêm tri thức về đối tượng nuôi. Từ đó giúp người nuôi có thông tin về quá trình lột xác của đàn tôm nuôi, có chế độ dinh dưỡng, cho ăn phù hợp và quản lý sức khỏe tôm nuôi được tốt hơn.
     
    - Đối với tôm thẻ chân trắng, vỏ chiếm 15% khối lượng cơ thể (không kể đầu), phần cơ chỉ chiếm 50% trọng lượng cơ thể. Để lớn lên tôm phải lột xác và quá trình này chia thành các giai đoạn chính: A, B (hậu lột xác); C (giữa chu kỳ lột xác; và D (tiền lột xác). Các giai đoạn này có thể nhận biết thông qua độ cứng của vỏ tôm. Sự lột xác của tôm chịu sự điều khiển của 2 yếu tố bên trong và bên ngoài. Đối với cơ chế bên trong, methyl famesoate (MF) là hormone có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết sự lột xác. Để tiết ra hormone MF, hệ enzyme Farnesoic acid o-methyltransferase (LvFAMeT) xúc tác sự chuyển hóa Farnesoic acid (FA) thành FM. Hormone MF được điều tiết bởi tuyến Y (Y-organ) nằm trong cuống mắt (eyestalk) của tôm và ngoài ra cũng có thể tìm thấy trong máu tôm. Enzyme FAMeT có 2 dạng là LvFAMeT-S và LvFAMeT-L. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các điều kiện bên ngoài như nhiệt độ tăng đột ngột, giảm oxy, độ mặn thay đổi đột ngột sẽ làm cho hormone MF gia tăng. Tình trạng sinh lý, dinh dưỡng và giai đoạn phát triển cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình lột xác của tôm. 

    Hình 1: Đặc điểm các giai đoạn lột xác trên tôm thẻ chân trắng L. vannamei (giai đoạn 10~15 g) 

    2. Bao lâu tôm lột xác một lần?

    - Giai đoạn ấu trùng, chu kỳ lột xác khoảng 40 giờ, giai đoạn 1-5g chu kỳ lột xác khoảng 4-6 ngày trong khi tôm lớn 15g chu kỳ lột xác kéo dài hơn thường từ 14-16 ngày (tôm sú Penaeus monodon cùng trọng lượng 15g là 11-12 ngày/chu kỳ) ở nhiệt độ nước 28oC. Giai đoạn giữa lột xác chiếm 12-20% thời gian trong chu kỳ, trong khi giai đoạn tiền lột xác (giai đoạn D) chiếm từ 58-74% thời gian. Như vậy giai đoạn tiền lột xác (premolt) chiếm khoảng thời gian nhiều nhất trong chu kỳ lột xác. Trong thời gian này hàm lượng nước trong cơ thấp hơn giai đoạn giữa chu kỳ lột xác (giai đoạn C) khoảng 3%. 

    Hình 2: Các giai đoạn lột xác

    - Chu kỳ lột xác của tôm thay đổi theo khối lượng thân. Đối với tôm từ 2-5g, tôm giảm ăn khoảng 2 ngày sau đó ăn mạnh trở lại và mất khoảng 2 ngày mới trở lại bình thường. Sau đó, tôm ăn mạnh cho đến khi bắt đầu chu kỳ lột kế tiếp. Hầu hết tôm lột vào ban đêm từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng hôm sau. Vào buổi sáng sớm khi quan sát ta có thể thấy các vỏ lột tấp vào bờ. Thông thường, thời điểm thu hoạch tôm là từ 6-8 ngày sau khi lột. Chu kỳ lột xác của tôm cũng tương quan với tuổi của tôm. Trong tháng đầu tiên thả nuôi, chu kỳ lột xác nhanh hơn với 4,6±0,5 ngày/chu kỳ, trong khi giai đoạn 2-3 tháng tuổi chu kỳ lột xác của tôm là 11,8±1,7 ngày. Nếu nuôi tôm được 5-6 tháng chu kỳ lột xác lên đến 17,2±2,7 ngày. Trong suốt quá trình lột xác, nước và hàm lượng protein trong cơ được cân bằng. Quá trình hoàn thiện về cơ thân sẽ được thực hiện trong giai đoạn giữa của chu kỳ lột xác (intermolt-giai đoạn C). 

    Hình 3: Chu kỳ lột xác

    3. Trọng lượng thay đổi như thế nào sau khi lột?

    - Giai đoạn giữa và hậu lột xác trọng lượng cơ thể không có sự khác biệt. Khi vừa mới lột xong (giai đoạn A-mềm vỏ) đến giai đoạn cứng vỏ (giai đoạn C) khối lượng cơ thể tôm tăng lên khoảng 5~7%. Điều này đồng nghĩa với việc khi ta thu hoạch tôm ở giai đoạn sau khi lột (tôm mềm vỏ) sản lượng tôm thu hoạch sẽ giảm đi 5% tổng trọng lượng thu hoạch. Tuy nhiên, chu kỳ lột xác của tôm không đồng nhất tùy thuộc vào sinh lý, dinh dưỡng của từng cá thể. Do đó người nuôi có thể chọn thời điểm phù hợp nhất khi phần lớn tôm ở giai đoạn C~D1 (từ giai đoạn cứng vỏ đến giai đoạn sớm của tiền lột xác). 

    Hình 4: Quá trình tăng trọng sau lột xác

    4. Sự thay đổi sinh hóa và miễn dịch trong chu kỳ lột xác?

    - Hàm lượng protein và haemocyanin trong máu cao nhất ở giai đoạn tiền lột xác (D0~D1) và thấp nhất ở giai đoạn vừa mới lột xác (giai đoạn A), không có sự khác biệt có ý nghĩa về hàm lượng haemocyanin giữa giai đoạn C và D. Điều này thể hiện rất rõ nếu sau khi lột xác (giai đoạn A, vỏ mềm) nếu ta kiểm tra máu ta sẽ thấy máu tôm rất loảng, thời gian đông kéo dài, số lượng tế bào bạch cầu giảm thấp hơn bình thường. Điều này làm hệ miễn dịch tôm suy giảm sau khi lột. Khi vừa mới lột xác, áp suất thẩm thấu và các yếu tố, Na+, K+ trong máu cũng giảm đáng kể. Chính vì điều này dẫn đến giai đoạn vừa mới lột xác tôm không bắt mồi, ít hoạt động và mãi đến sau 24 giờ mới phục hồi và hoạt động, bắt mồi bình thường. Sau lột xác (giai đoạn A) hàm lượng Ca2+ trong máu cao nhất sau đó giảm dần trong giai đoạn B và C do sự chuyển hóa Ca2+ giúp vỏ trở nên cứng hơn.

    - Thông thường, hàm lượng Ca2+ trong các bộ phận trong cơ thể của tôm như vỏ, gan tụy, máu và cơ cũng khác nhau. Trong đó Ca2+ trong vỏ và gan tụy là cao nhất. Trong chu kỳ lột xác thì hàm lượng Ca2+ tăng cao trong máu và gan tụy ở giai đoạn tiền lột xác (giai đoạn D), trong khi lại giảm thấp trong vỏ và cơ.

    5. Khoáng chất cần thiết cho quá trình lột xác của tôm?

    Hình 5: Tôm hấp thu khoáng qua hai đường chính
    A: Nước         B: Thức ăn

    - Đồng (Cu) là kim loại thiết yếu cần thiết cho quá trình lột xác của tôm. Chúng gia tăng vào giai đoạn tiền lột xác (D) và hậu lột xác (A, B). Nhiều enzyme trong cơ thể tôm có chứa Cu như là Cytochrome C oxidase (sản sinh năng lượng hoạt động), superoxide dismutase (loại bỏ các chất oxy hóa dư thừa trong quá trình thực bào), tyrosinase (tạo sắc tố), dopamine hydroxylase (tạo catecholamin giảm stress).

    - Khoáng tham gia vào quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu, cân bằng acid-bazơ và là thành phần trong máu, enzyme và hormone nội tiết trong cơ thể tôm. Thành phần chính của lớp vỏ cutin của tôm là CaCO3, một lượng nhỏ của Mg, P và S. Có khoảng 22 nguyên tố khoáng được tìm thấy trong tôm như là Ca, P, Mg, Fe, Zn, Cu, I, Se, Mo..., trong đó 99% của các thành phần vô cơ trong vỏ tôm thay đổi theo giai đoạn lột xác của tôm. Tôm cần bổ sung lượng khoáng nhất định vì khoáng bị tiêu tốn trong quá trình lột xác, cho nên cần bổ sung trong quá trình nuôi để bù đắp lại lượng khoáng đã bị mất. Trong quá trình nuôi cần bổ sung khoáng chất vào môi trường nước vì tôm có thể hấp thu khoáng từ môi trường nước. Hàm lượng P trong nước lợ/mặn không được dồi dào do đó cần trú trọng hàm lượng P trong thức ăn. Vì vậy, khi bổ sung khoáng vào trong thức ăn phụ thuộc vào hàm lượng khoáng ngoài môi trường. Nếu nuôi trong môi trường có độ mặn thấp, việc bổ sung Ca và Mg vào trong thức ăn là cần thiết. Tuy nhiên, sự hấp thụ Ca và P trong ruột tôm phụ thuộc vào sự tiết acid của đường ruột, thông thường tỉ lệ Ca trong khẩu phần khoảng từ 2-3% và P tối thiểu là dao động từ 1-2%. Tỉ lệ Ca/P 1:1 là có thể cung cấp đủ cho tôm. Tuy nhiên hàm lượng Mg cũng không kém phần quan trọng.

    - Trong chu kỳ lột xác của tôm, nhu cầu tiêu thụ oxy cũng khác nhau. Giai đoạn lột xác và hậu lột xác (giai đoạn E và A, B) nhu cầu tiêu thụ oxy gia tăng đến 86,2%, giai đoạn giữa chu kỳ (C) không có sự gia tăng về nhu cầu tiêu thụ oxy, giai đoạn đầu của tiền lột xác (D1 và D2) nhu cầu tiêu thụ oxy gia tăng khoảng 7% và giai đoạn cuối của tiền lột xác (D3) giá trị này tăng lên 12%. Do đó, cần quan tâm tăng cường oxy hòa tan vào các thời điểm tôm lột xác để bảo đảm cung cấp oxy đầy đủ cho tôm lột.

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline