Vi tảo - nguồn protein phù hợp cho bò sữa

logo
EN

Vi tảo - nguồn protein phù hợp cho bò sữa
Ngày đăng: 24/07/2020 8821 Lượt xem

    (Người Chăn Nuôi) - Các nghiên cứu mới đây trên bò sữa đã chứng minh sử dụng vi tảo như một nguồn thức ăn chứa protein không gây ra bất cứ hạn chế sinh học hoặc sinh lý học nào cho bò sữa trong các hệ chăn nuôi quy mô lớn.

    Protein giá trị

    Vi tảo là một nhóm vi sinh vật đa dạng phát triển trong nhiều môi trường. Điều này cũng phản ánh thành phần dinh dưỡng của vi tảo rất khác nhau giữa các loài, nhưng cũng có trường hợp, cùng một loài tảo nhưng giá trị dinh dưỡng lại khác nhau tùy vào chủng, điều kiện nuôi cấy, phương pháp thu hoạch và giai đoạn tăng trưởng.

    Thành phần dinh dưỡng đa dạng giúp các chuyên gia có thể tận dụng vi tảo theo nhiều cách khác nhau, tối ưu thành phần dinh dưỡng phục vụ các mục tiêu chăn nuôi cụ thể. Ví dụ, những loài tảo giàu protein như Spirulina platensis và Chlorella vulgaris được sử dụng để cung cấp chất đạm; trong khi tảo giàu chất béo hoặc carbohydrates là nguồn cung năng lượng phù hợp; tảo giàu axit béo không bão hòa đa, hoặc chất kháng ôxy hóa có thể được sử dụng làm phụ gia thức ăn. Những giá trị dinh dưỡng tiềm năng của vi tảo như một nguồn cung protein cho bò sữa vừa được đánh giá chi tiết trong nghiên cứu luận án tiến sĩ công bố tháng 5/2019 tại Đại học Helsinki.  

    4 nghiệm thức đã được xây dựng cho bò sữa để đánh giá tác động của các loại protein thức ăn khác nhau lên khả năng tiêu thụ thức ăn, năng suất sữa, chuyển hóa năng lượng, sử dụng ni-tơ và trao đổi axit amin. Trong các thử nghiệm, các loại vi tảo chưa tách béo gồm Spirulina platensis, Chlorella vulgaris và Nannochloropsis gaditana đã thay thế một phần hoặc toàn bộ protein trong các loại thức ăn truyền thống (khô cải, khô đậu tương và đậu tằm). Ngoài ra, tác động của protein lên sản lượng sữa và trao đổi chất cũng được đánh giá trong những thử nghiệm này.

    Hàm lượng protein trong tảo Spirulina platensis và Chlorella vulgaris cao hơn hẳn protein thô trong các loại thức ăn truyền thống, xấp xỉ 600 - 700 g/kg vật chất khô. Trong khi đó, đạm trong vi tảo Nannochloropsis gaditana chỉ 385 g/kg vật chất khô, tương đương lượng đạm của các loại thức ăn truyền thống. 

     

    Kém ngon

    Độ ngon của vi tảo rõ ràng kém hơn hẳn các loại protein truyền thống. Khi chất xơ và tinh chất được sử dụng riêng biệt làm thức ăn cho bò, thì lượng ăn vào các tinh chất chứa vi tảo đều giảm, nhưng có thể bù lại bằng cách cho bò ăn nhiều xơ hơn. 

    Kết quả là, tổng lượng thức ăn thu nạp không thay đổi khi vi tảo được sử dụng như một nguồn thay thế những loại thức ăn protein truyền thống. Khi được sử dụng như một khẩu phần hỗn hợp hoàn chỉnh cho bò sữa, nhìn chung bò ăn vào ít hơn vì ăn lẫn cả vi tảo. 

    Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu rõ ràng lý giải sự kém ngon của vi tảo có phải do kết cấu, mùi, vị của vi tảo khác biệt so với các protein thức ăn truyền thống hay không. Do đó, ngành dinh dưỡng vẫn cần phải có những nghiên cứu sâu hơn về tác động của quá trình nuôi cấy, thu hoạch, và chế biến tới thành phần và độ ngon của vi tảo.  

     

    Triển vọng mở rộng?

    Sản lượng sữa và protein trong sữa của bò ăn vi tảo được so sánh với bò được ăn đậu tương. Thay thế hạt cải và đậu tương bằng vi tảo Spirulina platensis có thể làm tăng sản lượng sữa béo do sự khác nhau trong quá trình lên men trong dạ cỏ, trọng lượng cơ thể giảm hoặc methionine thu nạp tăng lên. Nhìn chung, mặc dù kém ngon hơn, nhưng vi tảo hoạt động hiệu quả đáng kinh ngạc so với các loại protein thức ăn truyền thống. 

    Tác động của vi tảo lên khả năng sử dụng ni tơ phụ thuộc vào loại protein thức ăn thay thế. Thay thế hạt cải bằng vi tảo Spirulina platensis đã tạo ra những tác động tiêu cực, do ni tơ và protein có thể ăn được trong thức ăn chiếm một phần nhỏ hơn trong sữa. Cụ thể, khi bò ăn hạt cải, tỷ lệ sử dụng protein có thể ăn được là 150% -  mức cao nhất. Điều này có nghĩa, protein trong sữa của con bò được ăn hạt cải nhiều hơn lượng protein mà bò đã tiêu thụ trong thức ăn. Bởi vậy, cho bò ăn bằng hạt cải đã cải thiện an ninh lương thực do khô dầu hạt cải chỉ là một phụ phẩm của ngành sản xuất thực phẩm. Cho bò ăn bằng vi tảo, tỷ lệ sử dụng protein ăn được xấp xỉ 100%, nên vi tảo không tạo ra tác động tích cực hoặc tiêu cực lên an ninh lương thực.  

    Thay thế đậu tằm hoặc đậu tương bằng vi tảo tạo ra những tác động tích cực hơn so với hạt cải vì tỷ lệ ni tơ trong sữa đã tăng hoặc không thay đổi. Tỷ lệ sử dụng protein ăn được xấp xỉ 80% ở đậu tương và đậu tằm. Nói cách khác, bò được ăn những loại thức ăn này sẽ tiêu thụ protein mà người cũng có thể ăn được nhiều hơn lượng protein sản sinh trong sữa. Bởi vậy, những loại thức ăn như trên không đảm bảo an ninh lương thực như hạt cải và vi tảo. Khi vi tảo đã thay thế đậu tương trong khẩu phần ăn của bò, bài tiết ni tơ vào nước tiểu cũng giảm. Những hiệu quả trái ngược nhau cũng được quan sát thấy khi thay thế đậu tằm bằng vi tảo, vì tổng lượng ni tơ bài tiết vào môi trường cũng tăng. 

    Những kết quả thử nghiệm trên chứng tỏ vi tảo có thể được sử dụng làm protein thức ăn cho bò sữa trong các hệ thống sản xuất quy mô lớn. Vi tảo được đánh giá như một sự thay thế hoàn hảo, đặc biệt cho các loại hạt họ đậu gồm đậu tằm và đậu tương trong khẩu phần ăn của bò sữa.  

    >> Protein của khô dầu hạt cải đã được khoa học chứng minh phù hợp với khẩu phần ăn cơ bản của bò sữa gồm cỏ ủ silo và ngũ cốc. Cải thiện độ ngon của vi tảo trong khẩu phần ăn của bò sữa còn làm tăng sản lượng sữa vì lượng thức ăn thu nạp là nhân tố chính ảnh hưởng đến sản lượng sữa.

    Đan Linh - (Theo Allaboutfeed)

     

     

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Tầm quan trọng của chất dẫn dụ và công nghệ thủy âm thụ động trong ao nuôi tôm thẻ

    Tầm quan trọng của chất dẫn dụ và công nghệ thủy âm thụ động trong ao nuôi tôm thẻ

    Sử dụng chất dẫn dụ và tích hợp công nghệ thủy âm thụ động nhằm tối ưu hóa tỷ lệ sống và tăng trưởng cho tôm thẻ.
    10/02/2022

    12/11/2020

    06/11/2020

    27/10/2020
    Covid-19 cản đường xuất khẩu cá tra năm 2021

    Covid-19 cản đường xuất khẩu cá tra năm 2021

    Tại một số thị trường lớn, nhu cầu NK cá tra đang trở lại mức trước đại dịch Covid-19. Thị trường Mỹ có mức tăng trưởng mạnh mẽ, trong khi nhu cầu của Trung Quốc đang quay trở lại. Horeca là kênh bán hàng chính của nhiều thị trường trọng điểm cá tra nên sự phục hồi phụ thuộc nhiều vào việc mở cửa trở lại nền kinh tế các nước. Nhu cầu NK của thị trường EU vẫn còn tiếp tục ì ạch khiến cho các thị trường tiềm năng có cơ hội thay thế.
    15/12/2021
    Một chủng mới có độc lực gấp 1000 lần hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi

    Một chủng mới có độc lực gấp 1000 lần hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi

    Một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra chủng vi khuẩn mới gây bệnh hậu ấu trùng trong suốt (TPD) có độc lực gấp 1000 lần chủng gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) trên tôm.
    23/11/2021
    Chiến lược kiểm soát bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) trên tôm nuôi

    Chiến lược kiểm soát bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) trên tôm nuôi

    Vi khuẩn gây bệnh AHPND chủ yếu tấn công vào tuyến tiêu hóa (gan tụy) và làm tổn thương các tế bào gan tụy dẫn đến rối loạn chức năng làm tôm chết hàng loạt. Tôm bị ảnh hưởng bởi AHPND có biểu hiện lờ đờ, giảm ăn, chậm lớn, đường tiêu hóa trống rỗng và gan tụy nhợt nhạt.
    23/11/2021
    Lá dâu tằm trắng giúp kháng bệnh xuất huyết trên cá rô phi

    Lá dâu tằm trắng giúp kháng bệnh xuất huyết trên cá rô phi

    Nghiên cứu được thiết kế nhằm đánh giá tác dụng bảo vệ sinh hóa điều hòa miễn dịch và khả năng chống oxy hóa của chiết xuất lá dâu tằm trắng Morus alba (MAL) trên cá rô phi (Oreochromis niloticus) nhiễm Aeromonas hydrophila.
    23/11/2021
    Kết hợp vi khuẩn và vi tảo giúp gì cho nuôi trồng thủy sản?

    Kết hợp vi khuẩn và vi tảo giúp gì cho nuôi trồng thủy sản?

    Nuôi trồng thủy sản tuần hoàn đã được coi là một cách tiếp cận hiệu quả để tiết kiệm nước và năng lượng
    18/11/2021
    Florfenicol và acid chlorogenic trị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm

    Florfenicol và acid chlorogenic trị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm

    Bệnh EMS ảnh hưởng đến cả tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) và tôm sú (P. Monodon) gây ra thiệt hại đáng kể cho các trang trại nuôi tôm Đông Nam Á.
    28/10/2021
    Giun nhiều tơ - Vật trung gian truyền EHP cho tôm?

    Giun nhiều tơ - Vật trung gian truyền EHP cho tôm?

    Vi bào tử trùng EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là một nỗi lo cho ngành nuôi tôm vài năm gần đây.
    18/10/2021
    Zalo
    Hotline