Các bệnh phổ biến trong ương cá tra và biện pháp phòng ngừa

logo
EN

Các bệnh phổ biến trong ương cá tra và biện pháp phòng ngừa
Ngày đăng: 19/11/2020 15238 Lượt xem

    cá tra giống

    Sự thâm canh cá tra đã dẫn đến bùng phát dịch bệnh trên diện rộng và tỷ lệ tử vong cao.

    Ương cá tra chủ yếu gặp phải các bệnh truyền nhiễm, ít khi mắc đơn lẻ mà đồng nhiễm nhiều bệnh cùng lúc dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.

    Sự thâm canh của ngành cá tra đã dẫn đến bùng phát dịch bệnh trên diện rộng và tỷ lệ tử vong cao ở cả giai đoạn ương và nuôi. Các phương pháp quản lý sức khỏe cá nuôi hiện tại không đủ khả năng để giảm thiểu hoặc kiểm soát mức độ phổ biến của bệnh, dẫn đến phúc lợi cá, năng suất hoặc hiệu quả dưới mức tối ưu. 

    Các bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trong nuôi cá tra là: bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri (75%), bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila (60%), bệnh ký sinh trùng (48%), bệnh nấm saprolegniasis (19%), hội chứng gan và mang nhợt nhạt (17%), thối đuôi (14%) và bệnh trương bóng hơi (3%).

    Hầu hết nông dân cho biết có nhiều bệnh xảy ra cùng một lúc trong quá trình nuôi, thường gặp nhất là “bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila”, “bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh ký sinh trùng”, “bệnh ký sinh trùng và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila” và“ bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri, bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila và bệnh ký sinh trùng”. Sự đồng nhiễm có thể dẫn đến tử vong cao hơn so với nhiễm đơn lẻ, do đó điều quan trọng là phải nhận biết được sự đồng nhiễm. Điều này đã được chứng minh trong một thử nghiệm tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể ở những cá tiếp xúc với vi khuẩn (E. ictaluri) và sau đó bị nhiễm ký sinh trùng Ichthyophthirius multifiliis (71,1%) so với các trường hợp chỉ nhiễm E. ictaluri đơn lẻ (26,7%) hoặc I. multifiliis chỉ là (28,9%).

    A: ao ương cá tra ở ĐBSCL; B: trùng bánh xe Trichodina trong mang cá; C: nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Aeromonas: xuất huyết; D: bệnh thối đuôi: mảng trắng trên da; E: BNP: đốm trắng trên gan và lá lách; F: hội chứng mang và gan nhợt nhạt của cá bị nhiễm bệnh.

    Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng Trichodina ở cả ba giai đoạn ương là: 41,8% ở ấu trùng (0-20 ngày), 41,6% ở cá bột (21-30 ngày) và 58,7% ở cá giống (40-90 ngày). Nghiên cứu này đã phát hiện một tỷ lệ nhiễm cao vi khuẩn E. ictaluri (44,4% ở ấu trùng, 40% ở cá con và 35% ở cá giống) và A. hydrophila (11,1% ở ấu trùng, 30% ở cá bột và 30% ở cá giống. Vi khuẩn Flavobacterium columnare (gây bệnh trắng đuôi) được quan sát thấy ở cá giống với tỷ lệ 10% và không được quan sát thấy ở các giai đoạn ương khác.

    Các trường hợp đồng nhiễm vi khuẩn phổ biến nhất là E. ictaluri và A. hydrophila (16%), E. ictaluri và F. columnare (4%). Các loại nấm bệnh phổ biến nhất được phát hiện là Fusarium spp. (34,5% ở ấu trùng, 51,4% ở cá bột, và 47,7% ở cá giống) và Aspergillus spp. (43,6% ở ấu trùng, 32,4% ở cá bột và 41,5% ở cá giống).

    Đề xuất một hướng đi để giảm tỷ lệ mắc bệnh không phải đơn giản. Động lực để nông dân điều chỉnh và tiếp nhận các công nghệ mới là một quá trình phức tạp, nhưng nghiên cứu này cho thấy rằng việc cải thiện các phương pháp hiện tại của nông dân cũng có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.

    Thứ nhất, giảm thời gian giữa việc cho nước vào ao và thả cá sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh ký sinh trùng. Việc này có ảnh hưởng đến cá ngay sau khi thả giống vì người nuôi đã quan sát thấy hầu hết bệnh ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng vì vậy đó là thời điểm ảnh hưởng nhiều nhất. Cần có thêm nghiên cứu để xác định lý do tại sao thả một thời gian dài lại làm gia tăng bệnh ký sinh trùng, để các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, có thể nhắm vào chất lượng nước hoặc vi sinh vật trong nước có thể gây ra hậu quả này.

    Thứ hai, tăng số ngày giữa khi thả cá và bắt đầu tập ăn thức ăn công nghiệp là biện pháp bảo vệ chống lại cả bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila. Khả năng ăn thức ăn công thức của cá phụ thuộc vào khả năng tiêu hóa và sự phát triển cơ thể của chúng. Chính vì thế thước đo tốt hơn để bắt đầu cho ăn thức ăn công nghiệp là kích thước của cá. Ngụ ý rằng, thời gian cho ăn thức ăn công nghiệp lâu hơn thì cơ hội dương tính với bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri của chúng càng thấp. Bắt đầu tập ăn thức ăn công nghiệp ảnh hưởng đến bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri và bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila  bởi vì bệnh khởi phát chủ yếu ở giai đoạn cá bột (21-30 ngày sau khi thả), do đó nông dân có thể bắt đầu tập ăn thức ăn công nghiệp trung bình 18 ngày sau khi thả.

    Thứ ba, tháo bùn ao để ngăn ngừa bệnh ký sinh trùng. Bùn chứa thức ăn thừa và phân từ vụ trước, cần ngăn sự phát triển cũng như loại bỏ được kí sinh trùng thông qua việc tháo bùn. Mặt khác, bùn có chứa nhiều khoáng chất và chất dinh dưỡng, nhưng cũng có thể chứa dư lượng hóa chất được sử dụng trong các vụ trước, do đó hoạt động thải bùn trên sông được coi là chất gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, điều này có thể được giảm thiểu bằng cách ủ bùn, vì vậy tháo bùn đáy ao vẫn là phương pháp hiệu quả, dễ thực hiện và ít tác động đến môi trường khi bùn đã được xử lý.

    Thứ tư, sử dụng iốt để khử trùng nước sẽ bảo vệ cá với bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri. Iốt được biết đến với đặc tính kháng khuẩn. Đó có thể là lý do mà việc điều trị phòng ngừa bằng i-ốt có liên quan đến tỷ lệ bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri thấp hơn trong khảo sát này. 

    Ngoài các biện pháp phòng ngừa hiện đang được nông dân sử dụng, các biện pháp phòng ngừa mới đang xuất hiện như sử dụng hệ thống tuần hoàn để nuôi cá tra. Các hệ thống này sẽ cung cấp một mức độ kiểm soát tiên tiến mà các hệ thống ao nuôi hiện tại không có được. Tuy nhiên, những mô hình này đòi hỏi một khoản đầu tư lớn mà các cơ sở nuôi nhỏ ít đáp ứng được. Có những phát triển mới liên quan đến các biện pháp phòng ngừa đối với các bệnh cụ thể, ví dụ như tiêm chủng và chọn lọc di truyền để giảm thiểu bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri. Hiện nay, có hai chương trình nhân giống cá tra được thành lập tại Việt Nam được thực hiện song song, một chương trình nhằm cải thiện tốc độ tăng trưởng và chương trình còn lại nhằm nâng cao sức đề kháng cho bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri.

    Kết quả khảo sát này cho thấy rằng việc kéo dài thời gian tập ăn thức ăn công nghiệp, sử dụng iốt để xử lý nước, thoát bùn ao và giảm thời gian giữa việc đổ nước vào ao và thả cá có tác dụng bảo vệ đáng kể về mặt thống kê đối với bệnh gan thận mủ do Edwardsiellla ictaluri, bệnh xuất huyết do Aeromonas hydrophila hoặc bệnh ký sinh trùng. Do đó sủ dụng cùng lúc bốn phương pháp phòng ngừa này có thể có lợi giảm gánh nặng dịch bệnh trong ương cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long.

    Nguồn Tép Bạc

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu năm 2021 sẽ tăng 4%, chủ yếu là cá tra

    Nguồn cung cá thịt trắng toàn cầu năm 2021 sẽ tăng 4%, chủ yếu là cá tra

    Theo số liệu của nhà phân tích Ragnar Nystoyl của Kontali, nguồn cung cá trắng trên thế giới dự kiến sẽ tăng hơn 700.000 tấn so với năm 2020. Trong số các loài nuôi, sự phục hồi của cá tra là rõ ràng nhất, sản lượng sẽ cao hơn 300.000 tấn so với năm 2020.
    17/06/2021
    Nguyên nhân gây dị tật xương cá

    Nguyên nhân gây dị tật xương cá

    Dị tật xương không những ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, tăng trưởng của cá mà còn làm giảm giá trị kinh tế. Vậy tại sao cá lại bị dị tật xương?
    17/06/2021
    Pepsin cải thiện tốc độ tăng trưởng và chất lượng nước ao nuôi cá tra

    Pepsin cải thiện tốc độ tăng trưởng và chất lượng nước ao nuôi cá tra

    Pepsin là một trong những enzyme không thể thiếu trong khẩu phần ăn của cá da trơn nói chung và cá tra nói riêng vì chúng góp phần tăng sản lượng vụ nuôi.
    13/05/2021
    Các nguồn kẽm thay thế trong thức ăn heo

    Các nguồn kẽm thay thế trong thức ăn heo

    Nhiều năm nay, kẽm oxit được sử dụng ở hàm lượng cao trong hầu hết các khẩu phần ăn của heo con nhờ những hiệu quả mà nó mang lại. Tuy nhiên, EU đã quyết định cấm sử dụng kẽm oxit từ năm 2022, do ảnh hưởng sức khỏe của động vật và công cộng, cũng như các mối lo ngại về môi trường. Vì vậy, tìm kiếm và lựa chọn các nguồn nguyên liệu thay thế là rất cấp thiết.
    05/05/2021
    Covid-19 khiến nhiều đơn hàng thủy sản bị hủy

    Covid-19 khiến nhiều đơn hàng thủy sản bị hủy

    Tổng cục Thủy sản cho biết Covid-19 khiến hoạt động xuất nhập khẩu bị gián đoạn, đơn hàng bị hủy… Một số khách từ chối thực hiện đơn hàng mới, thiếu hụt lao động tạm thời.
    04/05/2021
    Những “cú hích” trong phát triển NTTS VN dưới cái nhìn của một người trong cuộc-Phần 2

    Những “cú hích” trong phát triển NTTS VN dưới cái nhìn của một người trong cuộc-Phần 2

    Những thành tựu đạt được của NTTS Việt Nam ngày nay đã làm vui lòng những người gắn bó với ngành và gây ngạc nhiên đối với nhiều bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, NTTS nước ta cũng đã có những bước thăng trầm
    15/04/2021
    Những “cú hích” trong phát triển NTTS VN dưới cái nhìn của một người trong cuộc-Phần 1

    Những “cú hích” trong phát triển NTTS VN dưới cái nhìn của một người trong cuộc-Phần 1

    Những thành tựu đạt được của NTTS Việt Nam ngày nay đã làm vui lòng những người gắn bó với ngành và gây ngạc nhiên đối với nhiều bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, NTTS nước ta cũng đã có những bước thăng trầm; trong đó có những “cú hích” có tác động thúc đẩy NTTS phát triển lên một tầm cao mới ở những thời điểm khác nhau. Đi với NTTS qua cùng năm tháng, cá nhân tôi cho rằng là những “cú hích” dưới đây là đáng ghi nhận hơn cả.
    14/04/2021
    Cách nhận biết và khắc phục một số trường hợp bất thường của màu nước ao nuôi cá

    Cách nhận biết và khắc phục một số trường hợp bất thường của màu nước ao nuôi cá

    Trong quá trình chăm sóc, quản lý ao nuôi cá, việc kiểm soát màu nước ao rất cần thiết, bởi màu nước ao phản ánh chỉ số của các yếu tố môi trường đang ở ngưỡng thích hợp hay ở mức báo động đối với sức khỏe của động vật thuỷ sản nuôi.
    29/03/2021
    6 mẹo để quản lý chất lượng nước trong nuôi tôm

    6 mẹo để quản lý chất lượng nước trong nuôi tôm

    Khi chất lượng nước tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tôm. Giảm lượng amoniac và các chất thải hữu cơ, từ đó hạn chế dịch bệnh. Ngoài ra, chất lượng nước tốt cũng góp phần giảm thiểu gánh nặng chất thải đối với môi trường bên ngoài.
    29/03/2021
    Nuôi tôm thành công trong ao nuôi nước ngọt?

    Nuôi tôm thành công trong ao nuôi nước ngọt?

    Hai yếu tốt cốt lõi để nuôi tôm nước mặn trong ao nước ngọt thành công là thả tôm với mật độ phù hợp và cung cấp đầy đủ khoáng chất chất lượng như các trang trại nuôi tôm ở Thái Lan đang làm.
    17/03/2021
    Khắc phục hiện tượng chim cút đẻ trứng trắng

    Khắc phục hiện tượng chim cút đẻ trứng trắng

    Hiện tượng chim cút đẻ trứng trắng làm suy giảm sức khỏe chim nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của người nuôi
    12/03/2021
    Nước ngầm trong nuôi trồng thủy sản

    Nước ngầm trong nuôi trồng thủy sản

    Đôi khi, nước lấy từ các giếng được sử dụng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản. Nước mưa thấm qua bề mặt đất được lọc qua đất và các hệ tầng sâu hơn đến khi tới một tầng đá không thấm nước.
    12/03/2021
    Zalo
    Hotline