Thay thế green malachite trong điều trị trùng quả dưa

logo
EN

Thay thế green malachite trong điều trị trùng quả dưa
Ngày đăng: 07/07/2020 15919 Lượt xem

    image

    Trước đây, green malachite được kết hợp với formalin dùng để điều trị bệnh trùng quả dưa và cho hiệu quả điều trị cao. Tuy nhiên, hóa chất thường tồn dư lâu trong cơ thể động vật làm ảnh hưởng đến máu, tế bào gan. Hiện, Bộ NN&PTNN đã cấm sử dụng hóa chất này, vì vậy, cần có giải pháp để thay thế green malachite trong điều trị bệnh trùng quả dưa.

    Phương pháp nghiên cứu

    Thu mẫu trùng quả dưa: Mẫu cá trắm cỏ nhiễm bệnh trùng quả dưa được đưa về phòng thí nghiệm, trùng quả dưa giai đoạn trùng trưởng thành (trophonts) được thu từ nhớt da của cá, và giữ ở nhiệt độ phòng trong 36 - 48 giờ, ấu trùng (theronts) nở ra sẽ được pha loãng để thu mẫu chứa dao động 5.000 - 7.500 theronts/ml.

    Thu mẫu cá thí nghiệm: Các mẫu cá trắm cỏ sạch bệnh được thu gom từ các ao cá khỏe mạnh, kiểm tra kỹ không nhiễm trùng quả dưa và bất kỳ loài ký sinh trùng nào khác trước khi gây nhiễm. Cá được cho thích nghi với môi trường bể ương trong phòng thí nghiệm 48 giờ trước khi tiến hành thí nghiệm.

    image

    Phương pháp: Hóa chất được sử dụng gồm formalin đậm đặc (38%) và hỗn hợp PHA bao gồm 3 loại hóa chất có tính ôxy hóa gồm axit paracetic 15%, hydrogen peroxide (H2O2) 25% và  axit acetic 25%. Pha chế thử nghiệm các công thức sau: Formalin 25 ppm (F25) kết hợp với hỗn hợp PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm (PHA1, PHA3, PHA5, PHA7 và PHA10).

    Bố trí thí nghiệm

    Thí nghiệm in vitro (đối với ấu trùng)

    Sử dụng đĩa nuôi cấy có 24 lỗ để chứa 20 - 30 µl dung dịch mẫu ấu trùng (200 - 250 ấu trùng). Sau đó, bổ sung các hỗn hợp hóa chất đã pha chế sẵn đủ 1 ml/lỗ và đạt các nồng độ cần thử nghiệm để tiến hành xử lý ấu trùng, trong đó có lỗ đối chứng không sử dụng hóa chất. Mỗi công thức điều trị được lặp lại 4 lần. Đĩa được giữ ở nhiệt độ 25oC và quan sát hiệu quả xử lý dưới kính hiển vi sau các khoảng thời gian xử lý khác nhau: 0, 1, 12, 24 và 48 giờ. Các ấu trùng bị chết được xác định là những ấu trùng không còn khả năng di động và bị biến đổi về mặt cấu trúc. Ấu trùng trong các lỗ được đếm từ trái sang phải, từ trên xuống theo mô tả của Xu et al. (2002).

    Thí nghiệm in vivo (đối với trùng trưởng thành)

    Thí nghiệm được tiến hành trong 21 bể (cỡ 40x50x60 cm), mỗi bể thí nghiệm chứa 40 lít nước. Sử dụng thiết bị cung cấp nhiệt để duy trì nhiệt độ nước ở mức 25 + 0,20C trong suốt thời gian thí nghiệm. Mỗi bể được bố trí 30 cá trắm cỏ hương (cỡ 4 + 0,24 g/con).

    Các lô thí nghiệm, cá được gây nhiễm với 5 ml dung dịch nhớt chứa trùng quả dưa giai đoạn ấu trùng. Theo Ventura và Paperna (1985), trùng quả dưa mất khoảng 48 - 72 giờ để tìm, ký sinh lên da, mang cá và trở thành trùng trưởng thành, do vậy thử nghiệm sẽ được tiến hành sau 72 giờ gây nhiễm. Các lô cá được xử lý bằng hỗn hợp formalin 25 ppm và PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm. Thời gian mỗi lần ngâm kéo dài 24 giờ, sau đó toàn bộ nước được thay hoàn toàn, cá được ngâm nhắc lại sau mỗi 2 ngày và lặp lại 5 lần. Trong khi đó, đồng thời gây nhiễm và điều trị song song 1 lô cá gây nhiễm bằng formalin + green malachite để tiện so sánh hiệu quả của 2 thử nghiệm.

    Ngoài ra, thí nghiệm có thêm các lô đối chứng 1 (ĐC1) là bể được gây nhiễm nhưng không điều trị và đối chứng 2 (ĐC2) là bể cá không gây nhiễm và không điều trị. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, điều kiện bể nuôi, chế độ cho ăn, chất lượng nước ở các lô được đảm bảo không có sự khác biệt và trong quá trình điều trị các bể đều được sục khí liên tục. Số lượng cá sống được ghi chép từng ngày, quá trình điều trị kết thúc sau 10 ngày, một nửa số cá ở các lô thí nghiệm và lô đối chứng được kiểm tra cường độ nhiễm và tỷ lệ nhiễm trung bình, số cá còn lại tiếp tục nuôi thêm 10 ngày và kiểm tra khả năng hồi phục của cá sau điều trị.

    Kết quả thí nghiệm

    Thử nghiệm in vitro: Kết quả điều trị bằng hỗn hợp formalin và PHA có tác dụng tốt trong quá trình xử lý ấu trùng, số lượng ấu trùng còn khả năng di chuyển và có hình thái bình thường giảm đi đáng kể theo thời gian. Tỷ lệ ấu trùng bị tiêu diệt không còn khả năng di chuyển và bị biến đổi về mặt cấu trúc cao nhất ở liệu trình điều trị F25 + PHA5-10, tỷ lệ chết 94 - 96,5% sau 48 giờ điều trị thử nghiệm.

    Thử nghiệm in vivo: Được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là thời gian điều trị bằng các hỗn hợp hóa chất, giai đoạn 2 là giai đoạn theo dõi hồi phục và khả năng tự sinh miễn dịch chống lại trùng quả dưa của cá trắm cỏ. Kết quả cho thấy, hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm cho kết quả xử lý tốt nhất. Tỷ lệ sống của cá lây nhiễm cao, đạt 92,23%.

    Như vậy, những trùng quả dưa còn sót lại ở lô đã được điều trị F25 + PHA10 trong vòng 10 ngày đầu ở giai đoạn 1 có thể hoặc không còn khả năng sinh sản do tác dụng của hỗn hợp điều trị hoặc bị tác động từ hệ thống miễn dịch của cơ thể dẫn đến chết và không tái nhiễm trên cá. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về miễn dịch của cá với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ vấn đề này.

    Mặc dù, hiệu quả xử lý trùng quả dưa của formalin 25 ppm + PHA10 ppm vẫn chưa triệt để so với hỗn hợp formalin và green malachite trong 10 ngày điều trị nhưng kết quả điều trị bước đầu đã hạn chế rất lớn tỷ lệ chết của cá, giảm cường độ nhiễm tới mức thấp, tạo điều kiện và thời gian để cá có những đáp ứng miễn dịch chống lại mầm bệnh và giúp cá hồi phục hoàn toàn sau 20 ngày.

    >> Nghiên cứu chưa được thử nghiệm ở các mô hình nuôi khác nhau, tuy nhiên trong thời điểm này có thể sử dụng hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm để điều trị bệnh trùng quả dưa thay thế cho green malachite ít nhất là trong các bể ương nuôi giống thủy sản, bể cá cảnh.

    Source: Kim Tiến, Theo Khoa Thủy sản, Khoa Thú y - Học viện Nông Nghiệp Việt Nam

    Chia sẻ:
    Tin liên quan

    13/05/2020
    Điều kiện lên men acid lactic tối ưu từ mật rỉ đường

    Điều kiện lên men acid lactic tối ưu từ mật rỉ đường

    Một trong những nhóm vi khuẩn có lợi được quan tâm nhiều nhất là nhóm vi khuẩn lactic, đây là nhóm vi khuẩn lên men chua đã được con người sử dụng từ rất lâu.
    23/10/2020
    5 mô hình nuôi tôm tiên tiến khả thi hiện nay

    5 mô hình nuôi tôm tiên tiến khả thi hiện nay

    Nghề nuôi tôm trên thế giới có nhiều công nghệ nuôi tôm tiên tiến đang được áp dụng khá phổ biến như: Copefloc, công nghệ BioSipec, công nghệ nuôi tôm mới sử dụng hoàn toàn bằng thức ăn tự nhiên; công nghệ nuôi tôm sử dụng thức ăn có nguồn gốc từ thực vật lên men; nuôi tôm theo qui trình 3 pha (three-phase) trong ao; nuôi tôm raceway siêu thâm canh nhiều tầng (super-intensive stacked raceway); Biofloc trong nuôi tôm siêu thâm canh; Semi-biofloc trong nuôi tôm thâm canh, ương nuôi tôm siêu thâm canh trong hệ thống nước chảy (raceway); nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kính.
    17/08/2020
    Lá ổi – Cây nhà lá vườn giúp cá giải độc thuốc trừ sâu

    Lá ổi – Cây nhà lá vườn giúp cá giải độc thuốc trừ sâu

    Trong số các chất kích thích miễn dịch được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, thảo dược là xu hướng hiện nay vì chúng thân thiện với môi trường, hiệu quả về kinh tế, ít tác dụng phụ nên được dùng trong phòng ngừa và điều trị bệnh cho cá.
    31/07/2020
    Nghiên cứu chế biến và sử dụng rong mơ làm thức ăn chăn nuôi

    Nghiên cứu chế biến và sử dụng rong mơ làm thức ăn chăn nuôi

    Rong Mơ rất giàu các chất dinh dưỡng như vitamin nhóm B, vitamin C, nhóm carotenid và các khoáng chất như canxi, natri, magie, kali và đặc biệt hàm lượng các nguyên tố khoáng vi lượng rất cần thiết cho cơ thể người, động vật như iod, sắt, coban… rất cao, đặc biệt thích hợp cho động vật trong giai đoạn sinh trưởng, sinh sản, ngoài ra rong Mơ còn chứa nhiều hoạt chất sinh học quý khác.
    27/07/2020
    Nuôi tôm trong ao nổi: Bước tiến mới trong nghề nuôi tôm

    Nuôi tôm trong ao nổi: Bước tiến mới trong nghề nuôi tôm

    Thay vì nuôi tôm bằng ao đất, ao đất trải bạt, một số người nuôi tôm ở TX Hoài Nhơn và TP Quy Nhơn (tỉnh Bình Định) đã mạnh dạn đầu tư mô hình nuôi tôm bằng ao nổi xây gạch, đúc bê tông xi măng kiên cố, có trải bạt. Cách nuôi này giúp kiểm soát tốt dịch bệnh tôm, tăng mật độ thả nuôi, đạt hiệu quả kinh tế cao.
    24/07/2020
    Vi tảo - nguồn protein phù hợp cho bò sữa

    Vi tảo - nguồn protein phù hợp cho bò sữa

    Các nghiên cứu mới đây trên bò sữa đã chứng minh sử dụng vi tảo như một nguồn thức ăn chứa protein không gây ra bất cứ hạn chế sinh học hoặc sinh lý học nào cho bò sữa trong các hệ chăn nuôi quy mô lớn.
    24/07/2020
    Thu nhập tốt nhờ nuôi bò sinh sản kết hợp bò vỗ béo

    Thu nhập tốt nhờ nuôi bò sinh sản kết hợp bò vỗ béo

    Trong vài năm trở lại đây, bò thịt trở thành vật nuôi mang lại nguồn thu nhập chính của nhiều bà con tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Bên cạnh nuôi bò sinh sản bán bê con thì người chăn nuôi còn phát triển thêm hình thức nuôi bò vỗ béo cho hiệu quả kinh tế cao.
    24/07/2020
    Xuất khẩu tôm 'ngược dòng' mùa dịch

    Xuất khẩu tôm 'ngược dòng' mùa dịch

    6 tháng đầu năm nay, xuất khẩu tôm đạt 1,5 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái, theo VASEP.
    24/07/2020
    Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật quyết định tỉ lệ sống cá tra bột

    Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật quyết định tỉ lệ sống cá tra bột

    Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật làm thức ăn ban đầu có ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá tra bột.
    23/07/2020
    Cá giống vào mùa kinh doanh

    Cá giống vào mùa kinh doanh

    Thời điểm này, dù chưa bước vào mùa lũ nhưng sức mua nhiều loại cá giống trên thị trường đã bắt đầu tăng mạnh.
    22/07/2020
    Chống nóng cho gà mùa hè

    Chống nóng cho gà mùa hè

    (Người Chăn Nuôi) - Để đàn gà được khỏe mạnh qua những đợt nắng nóng, người chăn nuôi cần có các biện pháp chống nóng thích hợp ngay từ ban đầu.
    22/07/2020
    Zalo
    Hotline