Thay thế green malachite trong điều trị trùng quả dưa

logo
EN

Thay thế green malachite trong điều trị trùng quả dưa
Ngày đăng: 07/07/2020 15902 Lượt xem

    image

    Trước đây, green malachite được kết hợp với formalin dùng để điều trị bệnh trùng quả dưa và cho hiệu quả điều trị cao. Tuy nhiên, hóa chất thường tồn dư lâu trong cơ thể động vật làm ảnh hưởng đến máu, tế bào gan. Hiện, Bộ NN&PTNN đã cấm sử dụng hóa chất này, vì vậy, cần có giải pháp để thay thế green malachite trong điều trị bệnh trùng quả dưa.

    Phương pháp nghiên cứu

    Thu mẫu trùng quả dưa: Mẫu cá trắm cỏ nhiễm bệnh trùng quả dưa được đưa về phòng thí nghiệm, trùng quả dưa giai đoạn trùng trưởng thành (trophonts) được thu từ nhớt da của cá, và giữ ở nhiệt độ phòng trong 36 - 48 giờ, ấu trùng (theronts) nở ra sẽ được pha loãng để thu mẫu chứa dao động 5.000 - 7.500 theronts/ml.

    Thu mẫu cá thí nghiệm: Các mẫu cá trắm cỏ sạch bệnh được thu gom từ các ao cá khỏe mạnh, kiểm tra kỹ không nhiễm trùng quả dưa và bất kỳ loài ký sinh trùng nào khác trước khi gây nhiễm. Cá được cho thích nghi với môi trường bể ương trong phòng thí nghiệm 48 giờ trước khi tiến hành thí nghiệm.

    image

    Phương pháp: Hóa chất được sử dụng gồm formalin đậm đặc (38%) và hỗn hợp PHA bao gồm 3 loại hóa chất có tính ôxy hóa gồm axit paracetic 15%, hydrogen peroxide (H2O2) 25% và  axit acetic 25%. Pha chế thử nghiệm các công thức sau: Formalin 25 ppm (F25) kết hợp với hỗn hợp PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm (PHA1, PHA3, PHA5, PHA7 và PHA10).

    Bố trí thí nghiệm

    Thí nghiệm in vitro (đối với ấu trùng)

    Sử dụng đĩa nuôi cấy có 24 lỗ để chứa 20 - 30 µl dung dịch mẫu ấu trùng (200 - 250 ấu trùng). Sau đó, bổ sung các hỗn hợp hóa chất đã pha chế sẵn đủ 1 ml/lỗ và đạt các nồng độ cần thử nghiệm để tiến hành xử lý ấu trùng, trong đó có lỗ đối chứng không sử dụng hóa chất. Mỗi công thức điều trị được lặp lại 4 lần. Đĩa được giữ ở nhiệt độ 25oC và quan sát hiệu quả xử lý dưới kính hiển vi sau các khoảng thời gian xử lý khác nhau: 0, 1, 12, 24 và 48 giờ. Các ấu trùng bị chết được xác định là những ấu trùng không còn khả năng di động và bị biến đổi về mặt cấu trúc. Ấu trùng trong các lỗ được đếm từ trái sang phải, từ trên xuống theo mô tả của Xu et al. (2002).

    Thí nghiệm in vivo (đối với trùng trưởng thành)

    Thí nghiệm được tiến hành trong 21 bể (cỡ 40x50x60 cm), mỗi bể thí nghiệm chứa 40 lít nước. Sử dụng thiết bị cung cấp nhiệt để duy trì nhiệt độ nước ở mức 25 + 0,20C trong suốt thời gian thí nghiệm. Mỗi bể được bố trí 30 cá trắm cỏ hương (cỡ 4 + 0,24 g/con).

    Các lô thí nghiệm, cá được gây nhiễm với 5 ml dung dịch nhớt chứa trùng quả dưa giai đoạn ấu trùng. Theo Ventura và Paperna (1985), trùng quả dưa mất khoảng 48 - 72 giờ để tìm, ký sinh lên da, mang cá và trở thành trùng trưởng thành, do vậy thử nghiệm sẽ được tiến hành sau 72 giờ gây nhiễm. Các lô cá được xử lý bằng hỗn hợp formalin 25 ppm và PHA ở các nồng độ 1, 3, 5, 7 và 10 ppm. Thời gian mỗi lần ngâm kéo dài 24 giờ, sau đó toàn bộ nước được thay hoàn toàn, cá được ngâm nhắc lại sau mỗi 2 ngày và lặp lại 5 lần. Trong khi đó, đồng thời gây nhiễm và điều trị song song 1 lô cá gây nhiễm bằng formalin + green malachite để tiện so sánh hiệu quả của 2 thử nghiệm.

    Ngoài ra, thí nghiệm có thêm các lô đối chứng 1 (ĐC1) là bể được gây nhiễm nhưng không điều trị và đối chứng 2 (ĐC2) là bể cá không gây nhiễm và không điều trị. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, điều kiện bể nuôi, chế độ cho ăn, chất lượng nước ở các lô được đảm bảo không có sự khác biệt và trong quá trình điều trị các bể đều được sục khí liên tục. Số lượng cá sống được ghi chép từng ngày, quá trình điều trị kết thúc sau 10 ngày, một nửa số cá ở các lô thí nghiệm và lô đối chứng được kiểm tra cường độ nhiễm và tỷ lệ nhiễm trung bình, số cá còn lại tiếp tục nuôi thêm 10 ngày và kiểm tra khả năng hồi phục của cá sau điều trị.

    Kết quả thí nghiệm

    Thử nghiệm in vitro: Kết quả điều trị bằng hỗn hợp formalin và PHA có tác dụng tốt trong quá trình xử lý ấu trùng, số lượng ấu trùng còn khả năng di chuyển và có hình thái bình thường giảm đi đáng kể theo thời gian. Tỷ lệ ấu trùng bị tiêu diệt không còn khả năng di chuyển và bị biến đổi về mặt cấu trúc cao nhất ở liệu trình điều trị F25 + PHA5-10, tỷ lệ chết 94 - 96,5% sau 48 giờ điều trị thử nghiệm.

    Thử nghiệm in vivo: Được chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là thời gian điều trị bằng các hỗn hợp hóa chất, giai đoạn 2 là giai đoạn theo dõi hồi phục và khả năng tự sinh miễn dịch chống lại trùng quả dưa của cá trắm cỏ. Kết quả cho thấy, hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm cho kết quả xử lý tốt nhất. Tỷ lệ sống của cá lây nhiễm cao, đạt 92,23%.

    Như vậy, những trùng quả dưa còn sót lại ở lô đã được điều trị F25 + PHA10 trong vòng 10 ngày đầu ở giai đoạn 1 có thể hoặc không còn khả năng sinh sản do tác dụng của hỗn hợp điều trị hoặc bị tác động từ hệ thống miễn dịch của cơ thể dẫn đến chết và không tái nhiễm trên cá. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về miễn dịch của cá với thời gian theo dõi dài hơn để làm rõ vấn đề này.

    Mặc dù, hiệu quả xử lý trùng quả dưa của formalin 25 ppm + PHA10 ppm vẫn chưa triệt để so với hỗn hợp formalin và green malachite trong 10 ngày điều trị nhưng kết quả điều trị bước đầu đã hạn chế rất lớn tỷ lệ chết của cá, giảm cường độ nhiễm tới mức thấp, tạo điều kiện và thời gian để cá có những đáp ứng miễn dịch chống lại mầm bệnh và giúp cá hồi phục hoàn toàn sau 20 ngày.

    >> Nghiên cứu chưa được thử nghiệm ở các mô hình nuôi khác nhau, tuy nhiên trong thời điểm này có thể sử dụng hỗn hợp formalin 25 ppm + PHA10 ppm để điều trị bệnh trùng quả dưa thay thế cho green malachite ít nhất là trong các bể ương nuôi giống thủy sản, bể cá cảnh.

    Source: Kim Tiến, Theo Khoa Thủy sản, Khoa Thú y - Học viện Nông Nghiệp Việt Nam

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Cảnh giác với SHIV - bệnh mới trên tôm

    Cảnh giác với SHIV - bệnh mới trên tôm

    Loài virus mới có tên viết tắt là SHIV (Shirmp hemocyte iridescent virus), còn được biết đến với tên Decapod iridescent virus 1 (Div1), thuộc họ Iridoviridae. Virus này gây ra bệnh nguy hiểm với tỷ lệ chết cao cho tôm thẻ chân trắng, được phát hiện đầu tiên ở Chiết Giang, Trung Quốc từ năm 2014. Những năm trở lại đây bệnh xuất hiện và gây thiệt hại cho tôm nuôi ở Trung Quốc. Cho đến nay, nhiều loài tôm mới cũng đã được phát hiện mang mầm bệnh như tôm bạc, tôm càng xanh…
    12/06/2020
    Ngừng ăn cá Vẹt!

    Ngừng ăn cá Vẹt!

    Mỗi con cá vẹt trưởng thành trung bình một năm thải ra 320 kg cát mịn. Chúng ta còn rất nhiều thứ để ăn, hãy ngừng ăn cá Vẹt!
    10/06/2020
    Sử dụng đúng cách men vi sinh khi nuôi thủy sản

    Sử dụng đúng cách men vi sinh khi nuôi thủy sản

    Sử dụng chế phẩm sinh học là hướng đi hiệu quả nhằm bảo vệ môi trường và tăng lợi nhuận kinh tế khi nuôi thủy sản.
    03/06/2020
    Dịch chiết quế và gừng trị rô phi bị mắt lồi, xuất huyết

    Dịch chiết quế và gừng trị rô phi bị mắt lồi, xuất huyết

    Trên cá rô phi, bệnh lồi mắt, xuất huyết thường xuất hiện vào mùa mưa và các tháng giao mùa ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, với tỷ lệ chết cao (gần như 100% từ khi phát hiện bệnh), gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho người nuôi, bệnh này được xác định do vi khuẩn Streptococcus agalactiae gây ra.
    03/06/2020
    Bài toán vực dậy ngành hàng cá tra

    Bài toán vực dậy ngành hàng cá tra

    Mặc dù là đối tượng chủ lực của ngành thủy sản, thế nhưng nhưng xu hướng cá tra hiện đang trượt về giá trị, hẹp về thị trường. Để vực dậy ngành hàng này, hơn khi nào hết, cần sự chủ động, linh hoạt của doanh nghiệp cùng các chính sách từ thị trường.
    27/05/2020
    Nuôi tôm 3 giai đoạn, xu thế tất yếu

    Nuôi tôm 3 giai đoạn, xu thế tất yếu

    Nếu giá thành nuôi trực tiếp là 85.000 – 90.000đ/kg thì nuôi 3 giai đoạn chỉ nằm ở mức 70.000đ/kg, giảm chi phí và an toàn hơn nhiều so với nuôi truyền thống.
    05/05/2020
    Indonesia khôi phục 300.000ha trại nuôi tôm bỏ hoang

    Indonesia khôi phục 300.000ha trại nuôi tôm bỏ hoang

    Indonesia lên kế hoạch hồi phục 300.000 hecta trại nuôi tôm bỏ trống ở Kuta để thúc đẩy ngành thủy sản một lần nữa trở lại đỉnh cao, tiến đến vị trí hàng đầu thế giới.
    28/04/2020
    Một số khuyến cáo khi nuôi tôm thẻ thời điểm giao mùa

    Một số khuyến cáo khi nuôi tôm thẻ thời điểm giao mùa

    Lưu ý khi nuôi tôm trong thời điểm giao mùa, điều kiện môi trường biến động lớn. Để giảm thiểu rủi ro, gây thiệt hại cho người nuôi tôm, đặc biệt các ao đang nuôi tôm chuẩn bị thu hoạch, người nuôi cần chú ý:
    28/04/2020
    Men vi sinh trong nuôi trồng thủy sản

    Men vi sinh trong nuôi trồng thủy sản

    Sử dụng men vi sinh là một trong những phương pháp kiểm soát miễn dịch hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản, được coi là chiến lược bổ sung, thay thế cho vắc-xin và hóa chất.
    28/04/2020
    Kịch bản nào cho giá tôm 2020?

    Kịch bản nào cho giá tôm 2020?

    Năm 2020, Covid-19 phát tán vô chừng, tạo nên những biến số biến động bất thường để hình thành các giá trị mới. Con tôm sẽ có giá nào có lẽ bị chi phối bởi yếu tố này mà ra.
    24/04/2020
    Streptomyces tăng khả năng sống sót của tôm nhiễm bệnh

    Streptomyces tăng khả năng sống sót của tôm nhiễm bệnh

    Kết quả khẳng định tiềm năng lớn của các chủng Streptomyces với vai trò là men vi sinh trong nuôi trồng thủy sản, cụ thể là đối với tôm thẻ.
    15/06/2020
    Lợi ích 'kép' từ mô hình vịt trên, cá dưới

    Lợi ích 'kép' từ mô hình vịt trên, cá dưới

    Mô hình nuôi vịt trên sàn kết hợp nuôi cá dưới ao ở tỉnh Tây Ninh khá độc đáo, an toàn dịch bệnh, mang lại lợi ích “kép” vô cùng hiệu quả…
    11/06/2020
    Zalo
    Hotline