Trùng loa kèn, trùng ống hút - tác nhân gây bệnh trên cá nước ngọt

logo
EN

Trùng loa kèn, trùng ống hút - tác nhân gây bệnh trên cá nước ngọt
Ngày đăng: 12/06/2020 18924 Lượt xem

    TS. Nguyễn Thị Thu Hằng - Khoa Thủy sản - Đại Học Cần Thơ

          Trùng loa kèn và trùng ống hút là hai nhóm ký sinh trùng bao gồm các giống loài Vorticella, Zoothamnium, Carchesium, Epistylis, Apisoma, Scyphidia, Acineta Tokophrya, Podophyria, Capriniana,… Hai nhóm trùng này thường hiện diện trong môi trường nước ngọt, đặc biệt là gây bệnh ở cá giống. Mặc dù hình thái của chúng có những điểm khác nhau nhưng hình thức ký sinh và gây tác hại cho cá giống nhau. Ở ao nuôi cá thịt, một số giống loài trùng loa kèn và trùng ống hút vẫn thường xuyên xuất hiện, nhưng cường độ cảm nhiễm thấp nên không làm cá thịt chết như ở giai đoạn cá giống.

    HÌNH THÁI

    Trùng loa kèn: Hình dạng cơ thể phía trước lớn, phía sau nhỏ, có dạng hình loa kèn, hình chuông lộn ngược, nên được gọi là trùng loa kèn. Đa phần phía trước cơ thể trùng có l-3 vòng lông rung và khe miệng, phía sau ít nhiều đều có cuống hoặc đế bám để bám vào ký chủ hay bất kỳ giá thể khác. Một số giống hình thành tập đoàn (Epistylis, Zoothamnium,...), các cá thể được liên kết với nhau bởi cùng một nhánh và bám vào cá. Đối với những giống sống riêng từng cá thể như Apiosoma, Scyphidia cũng dùng đế bám vào thân cá. Trùng loa kèn hấp thu chất dinh dưỡng bằng cách lọc trong môi trường nước.

     

    Trùng ống hút: Cơ thể thường thay đổi hình dạng, hình trứng, hình bầu dục. Phía trước cơ thể có 8-12 ống hút xếp theo hình phóng xạ. Không có cơ quan bám rõ ràng. Nhân lớn hình gậy, hình lạp xưởng, nhân nhỏ hình cầu. Trong tế bào chất có nhiều hạt dinh dưỡng và có 3-5 không bào. Thời kỳ ấu trùng nhân lớn hình tròn, nhân nhỏ hình bầu dục và có 2-3 ống hút.

    CHU KỲ PHÁT TRIỂN

    Trùng loa kèn và trùng ống hút có giai đoạn sinh sản vô tính và sinh sản hữu tính.

              Trùng sinh sản vô tính bằng hình thức cắt đôi theo chiều dọc cơ thể. Trùng trưởng thành khi bắt đầu quá trình sinh sản thì tế bào chất ở phía trước cơ thể hình thành một khe hở có hình vòng cung, khe hở tiếp tục phát triển xuống phía dưới hình thành đường rãnh và dần dần khép kín bao lấy khối tế bào chất bên trong. Xung quanh khối tế bào chất mọc 2-3 hàng lông tơ ngắn ngăn cách phần nguyên sinh chất ở trong và tế bào chất ở ngoài tạo thành mầm phôi của ký sinh trùng.

              Giai đoạn sinh sản hữu tính bằng hình thức tiếp hợp, thường cơ thể nhỏ bám gần miệng cơ thể lớn. Mầm phôi chuyển động chậm chạp trong cơ thể mẹ, sống tự do. Ấu trùng có dạng gần nửa hình cầu, kích thước 20-30m. Nhờ có lông tơ nên trùng vận động mạnh giống như trùng bánh xe. Ấu trùng sống tự do trong nước một thời gian rồi bám vào da, mang, vây cá và phát triển thành trùng trưởng thành.

    DẤU HIỆU BỆNH LÝ

          Trùng ký sinh trên da, vây, mang của cá. Cá nhiễm bệnh nhẹ không thấy rõ dấu hiệu bệnh lý, cá nhiễm nặng thường trên thân và mang có màu trắng đục. Trùng bám chặt lên các tơ mang phá hoại tế bào thượng bì, ảnh hưởng đến chức năng hô hấp của mang, làm cá hô hấp khó khăn nên thường nổi lên mặt nước.

    TÁC HẠI VÀ PHÂN BỐ BỆNH

          Trùng trùng loa kèn và trùng ống hút ký sinh với số lượng lớn có thể làm cá chết. Mặc dù không lấy chất dinh dưỡng trực tiếp trên thân, mang cá nhưng chúng cũng kích thích cá tiết ra nhiều dịch nhờn, cản trở hoạt động hô hấp của mang, cản trở qua trình vận động của cá, đặc biệt là gây tác hại nghiêm trọng đối với cá giống. Ngoài ra, trùng cũng ký sinh trên các loài giáp xác, tôm, cua, ba ba... ở giai đoạn ương giống đến nuôi thịt. Bệnh thường xuất hiện vào mùa xuân, mùa thu và mùa đông ở Miền Bắc và mùa mưa ở Miền Nam.

          Một số kết quả nghiên cứu ngoài nước cho thấy, trùng loa kèn và trùng ống hút ký sinh hầu hết ở động vật thủy sản sống trong môi trường nước chứa nhiều vật chất hữu cơ, kết quả này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm sinh học của chúng. Ở những ao nuôi có nhiều chất hữu cơ thường sẽ có trùng loa kèn và trùng ống hút. Vì vậy, quản lý tốt môi trường nước trong quá trình nuôi là một trong những khâu quan trọng ngăn chặn sự sinh sản và phát triển của trùng. Theo Bùi Quang tề (2008), trùng ống hút ký sinh trên da, mang của cá chép, cá mè, cá trôi...tỷ lệ nhiễm từ 0,66-25,3%, cường độ nhiễm 3-40 trùng/cá đã ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Ở Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ, kết quả kiểm tra nhớt da cá tra giống đôi khi cũng phát hiện trùng loa kèn ký sinh dầy đặc với cường độ nhiễm khá cao (>30 trùng/TT 10X), gây tỉ lệ cá chết khoảng 40%.     

    PHƯƠNG PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH

    Phòng bệnh cho cá trong quá trình ương/nuôi như sau:

    1. Kiểm tra ký sinh trùng trên da, vây, mang cá giống trước khi thả nuôi.

    2. Khử trùng nguồn nước khi cấp vào ao và quản lý chất lượng nước trong quá trình nuôi.

    3. Định kỳ vệ sinh các ao/bể ương nuôi cá

    4. Không thả nuôi cá mật độ quá dầy.

    5. Để trị bệnh trùng loa kèn có thể sử dụng một số hóa chất sau:

    Cá giống:

    -   KMnO4:  nồng độ 10-20 mg/L tắm trong 15-30 phút.

    -   NaCl: nồng độ 2-3% tắm trong thời gian 5 phút

    -   CuSO4: nồng độ 0,3-0,5 ppm

    Cá thịt:

    -    CuSO4: nồng độ 0,3-0,5 ppm

    -    Iodine (dạng thành phẩm - sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất).

    Bài viết đã được UV-Việt Nam mua tác quyền từ tác giả, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có trích dẫn nguồn từ Công ty Cổ Phần UV.

    Chia sẻ:
    Tin liên quan
    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Ứng dụng chế phẩm vi sinh EM trong NTTS và một số điểm lưu ý

    Mặc dầu EM đã được giới thiệu với khoảng 80 loài vi khuẩn hữu ích khác nhau trong thành phần với vai trò có thể tham gia hầu hết các quá trình chuyển hóa vật chất quan trọng trong thủy vực, tuy nhiên để một sản phẩm tồn tại nhiều loại vi khuẩn trong điều kiện lỏng cũng là một điều cần lưu ý. Theo như thông tin trên sản phẩm EM là một hỗn hợp nhiều giống loài ci khuẩn bao gồm: vi khuẩn quang hợp (Rhodopseudomonas palustris tổng hợp ra chất hữu cơ từ CO2 và H2O), vi khuẩn lactic (Lactobacillus chuyển hóa thức ăn khó tiêu thành thức ăn dễ tiêu), nấm men (Saccharomyces cerevisiae sản sinh vitamin và các axitamin), xạ khuẩn (sản sinh chất kháng sinh ức chế vi sinh vật gây bệnh và phân giải chất hữu cơ), nấm mốc, vi khuẩn (Bacillus subtilis phân hũy hợp chất hữu cơ).... Tuy nhiên chọn lựa một sản phẩm EM có chất lượng và ứng dụng đạt hiệu quả đòi hỏi người nuôi nên thận trọng chọn lựa.
    21/05/2025
    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    ỨNG DỤNG VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG TRONG NUÔI TÔM

    Ts Phạm Thị Tuyết Ngân, khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ Thách thức lớn nhất trong ngành tôm ở qui mô toàn cầu là vấn đề dịch bệnh, đặc biệt bệnh có nguồn gốc từ vi khuẩn và chủ yếu là các loài Vibrio (Ajadi et al., 2016; Hoseinifar et al., 2018). Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND), hay còn gọi “hội chứng tôm chết sớm” (EMS), do vi khuẩn Vibriosis gây ra với tỷ lệ chết nghiêm trọng (lên đến 100%) và ảnh hưởng đến kinh tế trên toàn cầu (Lightner et al., 2012; Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Boonsri et al., 2017). Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện tăng trưởng chậm, bụng đói và gan tụy bị teo nghiêm trọng (Joshi et al., 2014; Kongrueng et al., 2015; Sirikharin et al., 2015; Han et al., 2020). Ban đầu, tác nhân gây bệnh của AHPND đã được báo cáo là do Vibrio parahaemolyticus (VPAHPND) (Tran et al., 2013). Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các vi khuẩn Vibrio spp. khác, chẳng hạn như Vibrio punensis (Restrepo et al., 2018), Vibrio owensii (Liu et al., 2015), Vibrio harveyi-like (Kondo et al., 2015) và Vibrio campbellii (Dong et al., 2017) cũng có khả năng gây AHPND ở tôm. Bên cạnh AHPND, các loại Vibrio khác thường được báo cáo trên tôm nuôi do Vibrio alginolyticus, Vibrio anguillarum, V. harveyi, Vibrio vulnificus, V. campbellii và Vibrio fischeri gây nên bệnh (Lavilla-Pitogo et al., 1990; Lightner, 1996; Lavilla -Pitogo et al., 1998; Chen et al., 2000; Jayasree et al., 2006; Longyant et al., 2008; Zheng et al., 2016; Chandrakala và Priya, 2017; Karnjana et al., 2019). Hơn nữa, các loài không thuộc Vibrio như Aeromonas spp. (Dierckens et al., 1998; Zhou et al., 2019), Streptococcosis spp. (Hasson et al., 2009), Shewanella spp. (Wang et al., 2000), Flavobacterium spp. (Chandrakala và Priya, 2017) và Pseudoalteromonas spp. (Zheng et al., 2016) cũng được ghi nhận là có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng NTTS tôm cá. Do đó, các chiến lược tập trung vào việc hạn chế sự phát triển hoặc hoạt động của vi khuẩn gây bệnh là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề tôm nhiễm bệnh AHPND, kháng sinh đã dược sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, hầu như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho dịch bệnh này, hầu hết các dòng vi khuẩn V. parahaemolyticus kháng được hoàn toàn với oxytetracylin, là kháng sinh chủ yếu trộn vào thức ăn nuôi tôm định kỳ. Do đó sử dụng kháng sinh để trị bệnh không có hiệu quả, ngoài ra việc sử dụng kháng sinh còn gây ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm, đến sự tăng trưởng của tôm và gây ảnh hưởng đến chất lượng tôm.
    07/11/2024
    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC)  Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    NUÔI TÔM VÀ XU THẾ SỬ DỤNG VI SINH VẬT HỮU ÍCH (PROBIOTIC) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

    Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến nuôi tôm ngoài nguyên nhân nắng nóng kéo dài thì nhiều diện tích tôm nuôi bị thiệt hại còn do nguồn nước trên các kênh rạch bị ô nhiễm nặng, khiến bệnh phát sinh và lây lan. Đặc biệt, nhiều kênh, rạch có độ mặn quá cao đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do vậy để ngành nuôi tôm ven biển phát triển bền vững, rất cần sự đồng hành, đó là tiếp tục đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng vùng sản xuất và ương dưỡng giống tập trung theo quy hoạch chung của ngành, từng bước chủ động nguồn giống tại chỗ cung ứng nhu cầu phát triển sản xuất thủy sản. Giám sát, xử lý để giảm thiểu các nguồn xả thải ảnh hưởng đến môi trường nuôi tôm; đồng thời, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các quy định về quản lý, phòng ngừa khi có dịch bệnh xảy ra, hạc chế dịch bệnh lây lan trên diện rộng. Để đạt được hiệu quả toàn diện này trong nuôi tôm, theo tôi người nuôi phải ý thức mọi vấn đề liên quan và chú trọng đến việc quản lý chất lượng nước nuôi và xả thải để đảm bảo trên qui mô rộng nguồn nước mặt không bị ô nhiễm, đây là giải pháp lâu dài. Do vậy việc sử dụng vi khuẩn hữu ích trong quá trình nuôi và trước khi xả thải là cần thiết để đạt được những hiệu quả tịch cực mà ngành nghề mang lại cho người dân và xã hội.
    08/11/2024
    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN  VÀ MÔI TRƯỜNG

    PHÂN BIỆT ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM DO VI-RÚT, VI KHUẨN VÀ MÔI TRƯỜNG

    Bệnh đốm trắng do vi-rút là một trong những bệnh nguy hiểm cho tôm nuôi vì tỷ lệ chết cao và thời gian chết rất nhanh. Tuy nhiên, không phải tôm có đốm trắng nào cũng do vi-rút gây ra mà có thể tôm bị đốm trắng do vi khuẩn hay do yếu tố môi trường. Vì vậy, nắm vững kiến thức cơ bản về bệnh đốm trắng như hiểu biết về nguyên nhân, triệu chứng cũng như cách phân biệt bệnh để có chiến lược phòng ngừa và chữa trị là rất cần thiết.
    07/11/2024
    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    Một số bệnh kí sinh trùng thường gặp trên tôm nuôi

    - TS. Nguyễn Thị Xuân Hồng - Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Nông Lâm Huế -
    09/12/2021
    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    Kiểm Soát Vi Khuẩn Trong Ao Nuôi Bằng Biện Pháp Sinh Học

    -PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ -
    21/09/2021
    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    Ứng dụng đông trùng hạ thảo trong nuôi trồng thủy sản

    -Phòng Nghiên Cứu & Phát Triển RD Công Ty Cổ Phần UV-
    13/07/2021
    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    Công nghệ đông khô trong sản xuất các chủng PROBIOTIC

    - Phòng Nghiên Cứu và Phát Triển R&D Công ty Cổ Phần UV -
    06/07/2021
    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    Vai trò và sử dụng vitamin C trong nuôi trồng thủy sản

    PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền - Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ và Th.S Trần Thị Bé – Khoa Nông Nghiệp – Trường Đại học Bạc Liêu
    19/04/2021
    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    Ứng Dụng Chế Phẩm PSB (Photosynthetic Bacteria) Trong Nuôi Tôm

    - PGS.TS Phạm Thị Tuyết Ngân - Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ -
    06/04/2021
    Zalo
    Hotline